Chương 1

"Ngươi Phải Yêu Mến Chúa, Thiên Chúa Ngươi Hết Ḷng, Hết Linh Hồn và Hết Trí Khôn"


Chúa Giêsu đă tóm tắt bổn phận của con người đối với Thiên Chúa là: "Ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi hết ḷng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi".  Đây là âm vang trực tiếp của lời mời gọi long trọng: "Nghe đây, Israel : Chúa, là Thiên Chúa".  Thiên Chúa đă yêu thương chúng ta trước.  Lời đầu tiên của Thập Giới nhắc lại t́nh yêu của Thiên Chúa. Các mệnh lệnh tiếp theo làm nổi bật lời đáp trả yêu thương mà con người được mời gọi để dâng lên Thiên Chúa (2083).

Mục 1: Điều Răn Thứ Nhất

I.       "Các ngươi sẽ thờ phượng Chúa, Thiên Chúa các ngươi và chỉ phụng sự một ḿnh Ngài mà thôi" (2084-2094)

Thiên Chúa tự mặc khải bằng cách nhắc lại hành động yêu thương  và giải phóng đầy quyền năng của Ngài trong lịch sử.  Lời mời gọi đầu tiên và yêu sách chính đáng của Ngài là con người phải tiếp nhận và tôn thờ Ngài.  Ơn gọi của con người là làm cho người khác thấy Thiên Chúa qua cách sống phù hợp với bản chất là tạo vật được dựng nên "theo h́nh ảnh Thiên Chúa và giống Ngài".  Điều răn thứ nhất bao gồm đức tin, đức cậy và đức mến. (2084-2086).

Đức tin - Đời sống luân lư của ta bắt nguồn từ ḷng tin vào Thiên Chúa, Đấng mặc khải t́nh yêu của Ngài cho ta.  Bổn phận ta đối với Thiên Chúa là tin vào Ngài và làm chứng về Ngài.  Điều răn thứ nhất buộc chúng ta nuôi dưỡng và giữ ǵn đức tin cách cẩn trọng; và loại bỏ tất cả những ǵ nghịch với đức tin.  Có nhiều tội nghịch cùng đức tin (2087-2089):

ü      Cố t́nh hoài nghi về đức tin là coi thường hay không cho là chân thật những điều Thiên Chúa mặc khải và Hội Thánh dạy phải tin.

ü      Vô t́nh hoài nghi là do dự, không cố vượt qua những vấn nạn liên quan đến đức tin hay lo âu trước sự khó hiểu của đức tin.  Nếu cố chấp, hoài nghi sẽ làm cho tâm trí ra mù quáng.

ü      Vô tín là hờ hững với chân lư mặc khải hay cố t́nh từ chối không tin.  Lạc giáo là ngoan cố phủ nhận hay nghi ngờ một số chân lư phải tin theo đức tin đối thần và công giáo sau khi đă chịu phép Rửa.  Bội giáo là chối bỏ toàn bộ đức tin Kitô giáo.  Ly giáo là không tuân phục Đức Giáo Hoàng hay từ chối hiệp thông với các phần tử của Hội Thánh đang phục quyền ngài.

Đức Cậy - Con người không thể đáp trả trọn vẹn t́nh yêu của Chúa bằng sức riêng ḿnh, nên phải trông cậy Chúa ban khả năng để yêu Ngài và hành động phù hợp với các điều răn của đức ái.  Đức cậy trông là tin tưởng hy vọng được Thiên Chúa chúc phúc cho thấy Tôn Nhan Ngài; đồng thời cũng sợ mất ḷng Ngài và bị trừng phạt.  Các tội chính nghịch cùng Đức Cậy là ngă ḷng và tự phụ (2090-2092):

ü      Ngă ḷng - là không c̣n trông cậy vào ḷng thương xót, ơn tha thứ và ơn cứu độ của Chúa.

ü      Tự phụ - Có hai loại tự phụ: quá tin vào sức riêng không cần sự giúp đỡ của ơn trên; hay ỷ lại vào Thiên Chúa toàn năng và giàu ḷng thương xót mà không cần hối cải hay làm việc lành.

Đức mến - Điều răn thứ nhất dạy chúng ta phải kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, và yêu tất cả mọi tạo vật v́ Ngài và cho Ngài.  Có nhiều tội nghịch với t́nh yêu Thiên Chúa (2093-2094).

ü      Lănh đạm là xem thường hay không lưu tâm đến t́nh yêu Thiên Chúa, coi thường bản chất và sức mạnh của t́nh yêu của Ngài.

ü      Vô ơn là quên lăng hay từ chối nh́n nhận t́nh yêu Thiên Chúa và đáp trả t́nh yêu Ngài.

ü      Nguội lạnh là do dự, chểnh mảng trong việc đáp trả t́nh yêu của Thiên Chúa, hay từ chối dấn thân theo lời mời của đức ái.

ü      Lười biếng trong việc thiêng liêng có thể đưa đến từ khước niềm vui Thiên Chúa ban, và cự tuyệt ḷng nhân lành của Ngài.

ü      Ghét Thiên Chúa là do kiêu ngạo.  Chối từ sự tốt lành của Thiên Chúa, và nguyền rủa Ngài v́ Ngài cấm tội lỗi và trừng phạt họ.

II.    "Ngươi phải phụng sự một ḿnh Ngài mà thôi" (2095-2109)

Đức mến buộc chúng ta là tạo vật phải tạ ơn Thiên Chúa cách xứng đáng.  Nhân đức thờ phượng giúp chúng ta sống thái độ này (2095).

Thờ lạy - Thờ lạy Thiên Chúa là nhận biết Ngài là Thiên Chúa,  Đấng Tạo Hóa và Cứu Độ, là Chúa và Thầy của mọi loài, là T́nh Yêu vô biên và giàu ḷng thương xót.  Thờ lạy là tôn kính và tuyệt đối thần phục Ngài v́ nhận biết rằng sự hiện hữu của chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào Ngài.  Việc thờ lạy Thiên Chúa giải thoát ta khỏi nô lệ tội lỗi và sự sùng bái thế giới như ngẫu tượng (2096-2097).

Cầu nguyện -  Các hành vi tin cậy mến mà điều răn thứ nhất đ̣i buộc được hoàn thành trong cầu nguyện.  Nâng tâm hồn lên với Thiên Chúa để chúc tụng, tạ ơn, chuyển cầu và xin ơn là một cách thờ lạy Ngài.  Cầu nguyện là điều kiện thiết yếu để giúp ta tuân giữ giới răn của Thiên Chúa (2098).

Lễ Hy Sinh - Con người phải dâng lên Thiên Chúa những lễ hy sinh để tỏ ḷng thờ kính, tạ ơn, khẩn cầu và hiệp thông với Ngài.  Những hy sinh bề ngoài, nếu chân thật, phải là sự biểu lộ của những hy sinh bề trong.  Chỉ có một lễ hy sinh hoàn hảo duy nhất là hy lễ Đức Kitô dâng trên bàn thờ thập giá, để tận hiến cho t́nh yêu của Chúa Cha và để cứu chuộc chúng ta.  Kết hợp với lễ hy sinh này, chúng ta biến đời ḿnh thành lễ hy sinh dâng lên Thiên Chúa (2099-2100).

Lời hứa và lời khấn - Trong nhiều hoàn cảnh, một Kitô hữu được mời gọi để tuyên hứa với Thiên Chúa.  Các bí tích Thánh Tẩy, Thêm Sức, Hôn Phối và Truyền Chức luôn kèm theo những lời hứa.  Do ḷng đạo đức cá nhân, một Kitô hữu có thể hứa với Chúa thực hiện một hành động, một kinh nguyện, một việc lành nào đó. Việc trung thành tuân giữ lời hứa với Chúa, chứng tỏ ḷng kính trọng và t́nh yêu với Ngài.  Lời khấn là một việc đạo đức, qua đó các tín hữu tự hiến cho Thiên Chúa hay hứa thực hiện một việc tốt dâng kính Ngài.  Qua việc chu toàn lời khấn, họ dâng lên Chúa điều họ đă hứa và thánh hiến.  Sách Công Vụ Tông Đồ cho thấy thánh Phaolô luôn lo lắng chu toàn điều đă khấn.  Hội Thánh công nhận giá trị gương mẫu của những lời khấn sống theo các lời khuyên Tin Mừng (2101-2103)

Nhiệm vụ xă hội của tôn giáo và tự do tôn giáo - Mọi người đều có trách nhiệm đi t́m chân lư…. Khi đă nhận ra chân lư, họ phải tiếp nhận và trung thành với chân lư ấy.  Trách nhiệm này không ngăn cản chúng ta tôn trọng các tôn giáo khác, và không mâu thuẫn với đức ái.  Các Kitô hữu có trách nhiệm xă hộigiúp tha nhân nhận ra tôn giáo duy nhấtchân thật, đang thể hiện trong Hội Thánh Công Giáo và tông truyền.  Chúng ta phải làm chứng cho Đức Kitô và Hội Thánh Người bằng lời nói và việc làm của chúng ta (2104-2105).

Tự do tôn giáo có nghĩa là "trong phạm vi tôn giáo, không ai bị ép buộc hành động trái với lương tâm, cũng như không bị ngăn trở để hành động theo lương tâm trong những giới hạn họ được phép." Quyền tự do tôn giáo không cho phép lương tâm con người được đi theo hay phổ biến điều sai lạc, nhưng đây là quyền tự nhiên của con người, quyền được tự do theo dân luật nghĩa là được chính quyền bảo vệ khỏi những áp lực bên ngoài, để thực thi tự do tôn giáo, trong giới hạn thích đáng.  Quyền tự nhiên này phải được luật pháp xă hội tôn trọng, phải là một quyền công dân (2106-2109).

III.  "Ngươi không được có thần nào khác trước mặt Ta"

Điều răn thứ nhất cấm tôn thờ những thần khác ngoài Thiên Chúa Duy Nhất đă tự mặc khải cho dân, cấm mê tín và vô tôn giáo.  Có thể nói mê tín là một ḷng đạo quá mức và sai trái.  Vô tôn giáo là một thói xấu nghịch với nhân đức thờ phượng v́ thiếu ḷng đạo (2110).

Mê tín - là lệch lạc trong cảm xúc tôn giáo và trong cách thực hành những ǵ cảm xúc này áp đặt.  Mê tín cũng có thể ảnh hưởng đến cách thờ phượng Thiên Chúa thật; thí dụ như gán một ư nghĩa ma thuật cho một số việc đạo đức, như cho rằng chỉ cần đọc kinh là có hiệu quả, bất chấp những tâm t́nh phải có bên trong (2111).

Thờ ngẫu tượng - Điều răn thứ nhất lên án thuyết đa thần, buộc con người không được tin vào thần nào khác ngoài Thiên Chúa. Thờ ngẫu tượng c̣n là tôn thờ và kính bái một thụ tạo thay v́ Thiên Chúa, đó có thể là thần linh, ma quỉ, quyền lực, khoái lạc, chủng tộc, tổ tiên, bạc tiền v.v. Ai thờ ngẫu tượng th́ không nh́n nhận Thiên Chúa là Chúa Tể duy nhất, nên không thể thông hiệp với Ngài (2112-2114).

Bói toán và ma thuật - Một Kitô hữu có thể tiên liệu cho tương lai, nhưng phải phó thác hoàn toàn tương lai ḿnh trong tay Chúa Quan Pḥng và từ bỏ mọi thứ ṭ ṃ thiếu lành mạnh trong lănh vực này. Đó là mọi h́nh thức bói toán như cầu cơ, coi tử vi, chiêm tinh, xem chỉ tay, giải mộng, xin xăm, bói toán quá khứ vị lai, đồng bóng.  Làm như thế là không tôn kính sự quan pḥng của Thiên Chúa.  Ai mang bùa hay dùng pháp thuật dù để chữa bệnh, cũng lỗi nặng nhân đức thờ phượng.  Hội Thánh cảnh giác chúng ta phải xa lánh các điều ấy.  Khi dùng các phương thuốc gia truyền, không được kêu cầu các thế lực ma quỉ cũng như lợi dụng sự nhẹ dạ của người khác. (2115-2117).

Những tội nghịch với đức thờ phượng - Điều răn thứ nhất kết án những tội nghịch đức thờ phượng như (2118-2122):

ü      Thử thách Thiên Chúa là dùng lời nói hay việc làm để thử ḷng nhân hậu và uy quyền của Ngài. Thử thách Thiên Chúa luôn ẩn chứa thái độ ngờ vực t́nh thương yêu, sự quan pḥng và quyền năng của Ngài, là xúc phạm đến Ngài.

ü      Phạm thánh là xúc phạm hay cư xử bất xứng đối với các bí tích và các hành vi phụng vụ khác, cũng như đối với người, đồ vật và các nơi đă thánh hiến cho Thiên Chúa. Phạm thánh là một tội nặng, đặc biệt khi phạm đến Thánh Thể.

ü      Buôn thần bán thánh là mua hay bán những của cải thiêng liêng. Không ai có thể chiếm hữu những của cải thiêng liêng và sử dụng như người có toàn quyền, bởi đó là quà tặng của Thiên nên con người không được phép buôn bán các quà tặng ấy. Khi ban các bí tích, các thừa tác viên không được đ̣i hơn số tiền dâng cúng mà thẩm quyền Hội Thánh đă ấn định theo nguyên tắc "Thợ th́ đáng được nuôi ăn", và cũng phải cẩn trọng đừng để những người nghèo túng không được lănh nhận bí tích v́ không có tiền.

Chủ nghĩa vô thần là không nhận ra hoặc công khai loại bỏ mối liên kết mật thiết và sống c̣n giữa con người với Thiên Chúa.  H́nh thức thông thường là duy vật chủ nghĩa, chỉ giới hạn nhu cầu và tham vọng của con người trong không gian và thời gian. Nhân bản vô thần chủ nghĩa coi con người là chính cùng đích của ḿnh, là kẻ tạo nên và điều khiển lịch sử riêng ḿnh. Một h́nh thức khác của chủ nghĩa vô thần hiện đại t́m cách giải phóng con người bằng một cuộc giải phóng kinh tế và xă hội; h́nh thức này cho rằng tôn giáo mê hoặc con người với niềm hy vọng vào sự sống đời sau nên ngăn cản sự giải phóng trên. V́ phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa nên chủ nghĩa vô thần là một tội nghịch nhân đức thờ phượng. Các tín hữu có thể chịu phần trách nhiệm không nhỏ trong việc khai sinh vô thần, hoặc v́ xao lăng việc giáo dục đức tin, hoặc tŕnh bày sai lạc về giáo lư, hoặc do những thiếu sót trong đời sống tôn giáo, luân lư và xă hội. Chủ nghĩa vô thần thường đặt nền tảng trên một quan niệm sai lạc về quyền tự lập của con người, đến độ phủ nhận mọi lệ thuộc vào Thiên Chúa (2123-2126).

Chủ nghĩa bất khả tri cho rằng không thể biết chắc chắn là có Thiên Chúa. Có nhóm tin có một Đấng siêu việt, nhưng Ngài không tự mặc khải nên không ai biết ǵ về Ngài. Lại có nhóm không đề cập đến Thiên Chúa, v́ cho rằng không thể chứng minh, xác nhận hay phủ nhận về Ngài. Chủ nghĩa bất khả tri thường đồng nghĩa với chủ nghĩa vô thần thực hành, phần lớn những người theo chủ nghĩa này sống như là không có Thiên Chúa (2127-2128).

IV.  "Ngươi Không Được Làm cho Ḿnh H́nh Tượng..."

Mệnh lệnh của Thiên Chúa cấm mọi h́nh thức tạc tượng vẽ h́nh Thiên Chúa. Tuy nhiên, từ thời Cựu Ước, Thiên Chúa đă truyền lệnh hay cho phép làm những h́nh tượng biểu trưng ơn cứu độ nhờ Ngôi Lời nhập thể: ví dụ con rắn đồng, ḥm bia giao ước và các Kêrubim.  Dựa vào mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể mà Công Đồng chung thứ bảy, ở Nixêa (787), đă biện minh cho việc tôn kính ảnh tượng thánh.  Khi nhập thể, Con Thiên Chúa đă mở ra một "kế hoạch" mới cho ảnh tượng.  Việc các Kitô hữu tôn kính ảnh tượng, không nghịch lại điều răn thứ nhất cấm thờ ngẫu tượng, v́ khi tôn kính một ảnh tượng, chúng ta hướng tâm hồn lên chính Đấng được miêu tả. Chúng ta không thờ các ảnh tượng như những thực tại, nhưng như những h́nh ảnh đưa dẫn chúng ta đến cùng Thiên Chúa nhập thể (2129-2141).


Trở về mục lục - Trang Sau