Chương 1

Mặc Khải về Cầu Nguyện

Mọi Người Được Mời Gọi Cầu Nguyện


Con người đi t́m Thiên Chúa. - Khi tạo dựng, Thiên Chúa kêu gọi vạn vật từ hư vô bước vào hiện hữu.  Con người có khả năng nhận biết Danh Ngài.  Ngay cả sau khi đă phạm tội, con người vẫn c̣n mang h́nh ảnh Ngài, vẫn hướng về Đấng dựng nên ḿnh.  Mọi tôn giáo đều nói lên khát vọng t́m kiếm căn bản này của con người (2566).

Thiên Chúa kêu gọi con người trước.- Dù con người bỏ Thiên Chúa, Ngài vẫn không ngừng kêu gọi mọi người đến gặp Ngài trong cầu nguyện.  Trong cầu nguyện, Thiên Chúa luôn đi bước trước, con người chỉ cần đáp lời.  Cầu nguyện là một cuộc trao đổi lời mời, một diễn tiến giao ước.  Qua lời nói và hành vi, diễn tiến này là cam kết của con tim.  Diễn tiến này đă xảy ra trong suốt lịch sử cứu độ (2567).

Mục 1 - Trong Cựu Ước

Trong Cựu Ước sau khi nguyên tổ sa ngă, Thiên Chúa đă t́m họ trước, và họ đă trả lời.  Như thế, cầu nguyện được gắn liền với lịch sử loài người, và là tương quan giữa con người với Thiên Chúa trong các biến cố lịch sử (2568).

Tạo vật - nguồn gốc của cầu nguyện - Trước hết, việc cầu nguyện bắt đầu từ các tạo vật.  Qua các tạo vật chúng ta có thể nhận ra chân lư về Thiên Chúa.  Chín chương đầu của sách Sáng Thế Kư diễn tả việc dùng các tạo vật mà cầu nguyện cùng Thiên Chúa của các ông Abel, Ênóc, và Nôe.  Biết bao người công chính trong các tôn giáo đă cầu nguyện như thế.  Trong giao ước bất diệt với mọi sinh vật, Thiên Chúa luôn mời gọi con người cầu nguyện.  Nhưng từ tổ phụ Abraham, cầu nguyện thực sự được mặc khải trong Cựu Ước (2569).

Lời hứa của Thiên Chúa và cầu nguyện của Đức Tin - Ngay khi được Thiên Chúa kêu gọi, ông Abraham làm theo ư Ngài và luôn vâng Lời Ngài.  Lúc đầu, ông đă cầu nguyện bằng hành động, là luôn lắng nghe Lời Chúa và quyết định theo ư Ngài.  Măi sau, ông mới cầu nguyện bằng lời để nhắc Chúa về lời hứa Ngài chưa thực hiện.  Như thế, một trong những khía cạnh đặc biệt của cầu nguyện là việc chịu thử thách về đức tin vào Thiên Chúa.  Ông Abraham tin vào Ngài, bước đi trước nhan Ngài và kư kết giao ước với Ngài.  Từ khi Thiên Chúa kư thác ư định của Ngài cho ông, ông đă dám cầu nguyện cho tha nhân.  Trong cuộc thanh luyện cuối cùng về đức tin, Thiên Chúa đă đ̣i ông Abraham  phải sát tế đứa con mà Ngài đă ban cho ông.  Ông vẫn vững tin.  Như thế, ông đă xử sự giống như Chúa Cha là sẵn sàng hy sinh con một của ông.  Nhờ cầu nguyện, con người trở nên giống Thiên Chúa và được tham dự vào quyền năng cứu độ của Ngài.  Thiên Chúa đă nhắc lại lời hứa với ông Giacob.  Trước khi đối phó với anh là Êsau, ông đă vật lộn suốt đêm với một người huyền bí. Truyền thống linh đạo của Hội Thánh xem việc này là biểu tượng của cầu nguyện như một cuộc chiến đức tin và chiến thắng dành cho người kiên tŕ (2570-2573).

Ông Môsê và lời cầu nguyện của vị trung gian - Khi Thiên Chúa bắt đầu thực hiện lời hứa với các tổ phụ, lời cầu nguyện của ông Môsê là h́nh ảnh nổi bật của lời cầu nguyện chuyển cầu sẽ được hoàn thành trong Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người là Đức Kitô.  Ngài đă gọi ông Môsê từ giữa Bụi Gai đang cháy.  Biến cố này là một trong những h́nh ảnh đứng đầu về cầu nguyện trong truyền thống linh đạo Do Thái và Kitô giáo.  Thiên Chúa tỏ ḿnh ra để cứu dân Ngài, nhưng Ngài không muốn hành động một ḿnh hoặc bất chấp ư kiến con người.  V́ thế Ngài gọi ông Môsê cộng tác với Ngài trong việc cứu độ.  Trong cuộc đối thoại sai đi, Ngài tỏ ḷng tín nhiệm ông, c̣n ông học biết cầu nguyện: ông từ chối, thắc mắc, và đ̣i hỏi.  Để đáp ứng yêu cầu của ông, Thiên Chúa đă cho ông biết Danh Ngài, Danh được mặc khải qua các kỳ công trong lịch sử.  Cách cầu nguyện của ông Môsê là khuôn mẫu cầu nguyện chiêm niệm; nhờ đó, ông trung thành với sứ mạng của ḿnh.  Ông Môsê đàm đạo thường xuyên và lâu giờ với Chúa, sau đó ông xuống với dân để nói lại cho họ những lời của Ngài và hướng dẫn họ.  Nhờ sống thân mật với Thiên Chúa, ông đă t́m được sức mạnh để kiên tŕ chuyển cầu cho dân.  Ông không cầu xin cho ḿnh nhưng cho dân.  Đặc biệt, khi dân phạm tội phản nghịch cùng Thiên Chúa và Ngài tính tiêu diệt họ.  Các lư lẽ của ông gợi hứng cho cách cầu nguyện của bao nhiêu người trong dân Do Thái cũng như trong Hội Thánh: Thiên Chúa là t́nh yêu, nên Ngài công b́nh và thành tín; Ngài không thể mâu thuẫn với chính ḿnh, nên sẽ nhớ lại bao việc lạ lùng Ngài đă làm; v́ vinh quang của Ngài, Ngài sẽ không bỏ rơi dân mang danh Ngài (2574-2577).

Đavid và lời cầu nguyện của vua - Kinh nguyện của Dân Chúa phát triển dưới bóng nhà Chúa.  Lúc đầu là Lều Giao Ước và sau đó là Đền Thờ.  Ḷng vâng phục thánh ư Thiên Chúa, lời ca ngợi và tâm t́nh sám hối của vua Đavid thành gương mẫu cho sự cầu nguyện của dân chúng.  Qua các Thánh Vịnh, vua Đavid được Thánh Thần linh ứng đă trở thành vị ngôn sứ hàng đầu của truyền thống cầu nguyện Do Thái và Kitô giáo.  Kinh nguyện của Đức Kitô, Con vua Đavid sẽ mặc khải và hoàn thành ư nghĩa của kinh nguyện này.  Đền Thờ Giêrusalem, ngôi nhà cầu nguyện mà vua Đavid định xây, được vua Sôlômon thực hiện.  Lời nguyện Cung Hiến Đền Thờ dựa trên Lời Hứa và Giao Ước của Thiên Chúa, trên sự hiện diện đầy uy lực của Danh Thánh giữa Dân Ngài và nhắc lại những kỳ công Ngài thực hiện thời trong Xuất Hành. (2578-2580).

Êlia, các ngôn sứ và việc hoán cải tâm hồn -  Đối với Dân Chúa, Đền Thờ phải là nơi dạy cho họ biết cầu nguyện.  Tất cả các cuộc lễ là những dấu chỉ về Thiên Chúa rất cao sang nhưng thật gần gũi họ; đồng thời là những lời mời gọi và những con đường dẫn đến cầu nguyện.  Dân Chúa cần được giáo dục đức tin và hoán cải tâm hồn. Đây là sứ mạng của các ngôn sứ trước và sau thời lưu đày.  Sau khi học biết thương xót ở Kêrith, ông Êlia đă dạy cho bà góa làng Darêphath tin vào lời Thiên Chúa củng cố đức tin của bà khi khẩn xin cho con trai bà sống lại; và Thiên Chúa đă nhậm lời.  Cuộc tế lễ trên núi Carmel là thử thách quyết định niềm tin của Dân Chúa.  Theo lời khẩn cầu của ông Êlia, Thiên Chúa đă cho lửa từ trời xuống đốt lễ toàn thiêu.  Sau cùng, ông Êlia trở lại hoang địa để ẩn ḿnh "trong hốc đá" như ông Môsê ngày xưa, cho tới khi Thiên Chúa đi qua. Nhưng chỉ trên núi Hiển Dung, Tôn Nhan của Đấng các ngài luôn t́m kiếm mới được tỏ lộ, Đấng chịu đóng đinh và sống lại. Trong những lúc một ḿnh trước Nhan Thiên Chúa, các ngôn sứ t́m được ánh sáng và sức mạnh để thực hiện sứ mạng.  Khi cầu nguyện, các ngài không chạy trốn thế giới bất trung nhưng lắng nghe Lời Chúa; đôi khi các ngài tranh luận hay than thở với Chúa, nhưng luôn chuyển cầu cho Dân, trong khi chờ đợi và chuẩn bị cho sự can thiệp của Thiên Chúa Cứu Độ (2581-2584).

Các Thánh Vịnh, lời cầu nguyện của cộng đoàn - Từ thời Vua Đavid cho đến khi Đấng Mêssia tới, các Thánh Vịnh được thâu thập thành một bộ năm cuốn là sách Thánh Vịnh, một tuyệt tác kinh nguyện trong Cựu Ước.  Các Thánh Vịnh nuôi dưỡng và diễn tả tâm t́nh cầu nguyện của Dân Chúa, là cộng đoàn qui tụ vào các dịp đại lễ tại Giêrusalem, và mỗi ngày sabath trong các hội đường.  Kinh nguyện này vừa có tính cách cá nhân vừa có tính cách cộng đoàn, vừa liên hệ với những người đang cầu nguyện, vừa liên hệ mọi người.  Các Thánh Vịnh nhắc lại các biến cố cứu độ trong quá khứ, và vươn đến ngày hoàn tất lịch sử; nhắc lại những lời hứa mà Thiên Chúa đă thực hiện, và chờ đợi Đấng Mêssia đến hoàn tất trọn vẹn.  Được Đức Kitô sử dụng để cầu nguyện và kiện toàn, các Thánh Vịnh luôn chiếm vị trí thiết yếu đối với kinh nguyện của Hội Thánh. Trong Thánh Vịnh, Lời Chúa trở thành lời cầu nguyện của con người.  Các Thánh Vịnh luôn là tấm gương phản chiếu những kỳ công mà Thiên Chúa đă thực hiện trong lịch sử Dân Ngài và những hoàn cảnh nhân sinh tác giả đă trải qua.  Ai cũng có thể dùng Thánh Vịnh để cầu nguyện.  Qua Thánh Vịnh, chúng ta thấy những đặc điểm:

ü      sự đơn sơ và tự phát của lời cầu nguyện,

ü      ḷng khao khát chính Thiên Chúa qua và cùng với tất cả những ǵ tốt đẹp trong các tạo vật của Ngài.  

ü      Hoàn cảnh khó khăn của các tín hữu v́ yêu Chúa mà phải đương đầu với kẻ thù và thử thách, nhưng luôn trông cậy vào Ngài.

Các Thánh Vịnh vang lên lời mời gọi cầu nguyện đồng thời hát lên lời đáp : Halleluia, "Hăy chúc tụng Chúa" (2585-2597).


Trở về mục lục - Trang Sau