Bài Giáo Lý XI của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin

Căn Tính của Chúa Giêsu

 Điều xảy ra trong Đức Mẹ Maria, nhờ tác động của Thần Khí Thiên Chúa, là một việc tạo dựng mới.

Dưới đây là bản dịch Bài Giáo Lý thứ mười một của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin, được ban hành tại Sảnh Đường Phaolô VI hôm thứ tư ngày 2 tháng 1, 2013.  Hôm nay ĐTC dạy tiếp tục loạt Bài Giáo Lý về Đức Tin.

* * *

Anh chị em thân mến,

Lễ Giáng sinh của Chúa một lần nữa chiếu ánh sáng vào những bóng tối thường bao phủ thế gian và tâm hồn của chúng ta, cùng mang lại niềm hy vọng và niềm vui.  Ánh sáng này từ đâu đến? Từ hang đá Bethlehem, nơi các mục đồng tìm thấy “Đức Mẹ Maria và Thánh Giuse, cùng Hài Nhi nằm trong máng cỏ” (Lc 2:16).  Trước Thánh Gia này phát sinh một câu hỏi khác sâu xa hơn là: làm sao mà Hài Nhi bé nhỏ và yếu đuối này đã mang lại một sự mới lạ triệt để trên thế gian để thay đổi dòng lịch sử?  Chẳng phải là có một điều gì mầu nhiệm trong nguồn gốc của Người vượt ra ngoài hang đá ấy hay sao?

Câu hỏi về nguồn gốc của Chúa Giêsu luôn được người ta nhắc đi nhắc lại, cùng là một câu hỏi của quan Phongxiô Philatô trong phiên xử: “Ông từ đâu đến?” (Ga 19:29). Tuy nhiên, nguồn gốc của Người lại thật rõ ràng. Trong Tin Mừng Thánh Gioan, khi Chúa quả quyết: “Ta là bánh từ trời xuống,” người Do Thái phản ứng bằng cách lẩm bẩm với nhau, “Ông này không phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Chúng ta chẳng biết cha mẹ ông ta sao? Làm sao ông ta có thể nói, ‘Ta từ trời xuống?’” (Ga 6:42).  Và, chẳng bao lâu sau đó, các công dân của Giêrusalem đã kịch liệt chống lại việc Chúa Giêsu tự nhận là Đấng Mêsia khi họ nói rằng “Nhưng chúng ta biết ông ta từ đâu đến; mà khi Đấng Mêsia đến, thì không ai biết Ngài từ đâu đến” (Ga 7:27). Chính Chúa Giêsu đã vạch ra việc họ nghĩ rằng họ biết nguồn gốc của Người là điều thiếu sót như thế nào, và cũng cung cấp một hướng đi để biết Người từ đâu đến: “Tôi không tự mình mà đến.  Ðấng đã sai Tôi là Ðấng chân thật, mà các ông không biết Ngài.” (Ga 7:28).  Tất nhiên, Chúa Giêsu phát xuất từ Nadareth, sinh ra tại Bethlehem, nhưng người ta biết gì về nguồn gốc thật sự của Người?

Trong bốn Tin Mừng, câu trả lời cho câu hỏi Chúa Giêsu “từ đâu” đến trở nên rõ ràng hơn: nguồn gốc thực sự của Người là Đức Chúa Cha, Thiên Chúa. Người đến hoàn toàn từ Ngài, nhưng bằng một cách khác biệt với bất kỳ ngôn sứ nào được Thiên Chúa sai đến trước Người.  Điều này bắt nguồn từ mầu nhiệm của Thiên Chúa, là Đấng “không ai biết”, đã được chứa đựng trong tường thuật thời thơ ấu của các Tin Mừng Thánh Matthêu và Thánh Luca, mà chúng ta đọc trong mùa Giáng Sinh này. Thiên sứ Gabriel tuyên bố: “Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Ðấng Tối Cao sẽ bao phủ (rạp bóng) bà; vì vậy, Con Trẻ sắp sinh ra sẽ được gọi là Ðấng Thánh, là Con Thiên Chúa.” (Lc 1:35).  Chúng ta lặp lại những lời này mỗi lần chúng ta đọc kinh Tin Kính, lời tuyên xưng đức tin: “et incarnatus est de Spiritu Sancto, ex Maria Virgine,” “bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria”.  Trong câu này, chúng ta quỳ xuống [bản tiếng Anh dịch là cúi đầu] bởi vì bức màn che khuất Thiên Chúa có thể nói là được vén lên, và mầu nhiệm khôn dò và không thể tiếp cận được của Ngài trực tiếp chạm đến chúng ta: Thiên Chúa trở thành Đấng Emmanuel, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta.”  Khi chúng ta lắng nghe các bộ hát Thánh Lễ được sáng tác bởi các bậc thầy vĩ đại của thánh nhạc, thí dụ như Bộ Đại Thánh Lễ của Mozart, tôi thiết nghĩ rằng chúng ta nhận ngay ra rằng người ta ngừng lại một cách đặc biệt ở câu này, như thể để cố gắng diễn tả bằng ngôn ngữ phổ quát của âm nhạc điều mà lời nói không thể nào diễn tả nổi: mầu nhiệm cao cả của Thiên Chúa nhập thể, làm người.

Nếu chúng ta xem xét cẩn thận lời cụm từ “bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria,” chúng ta thấy rằng cụm từ này bao gồm bốn chủ thể hành động.  Chúa Thánh Thần và Đức Mẹ Maria được đề cập một cách rõ ràng, nhưng “Người”, nghĩa là Chúa Con, Đấng đã trở thành nhục thể trong lòng Đức Trinh Nữ, được hiểu ngầm.  Trong lời tuyên xưng đức tin, Kinh Tin Kính, Chúa Giêsu được nhắc đến bằng những danh hiệu khác nhau: “Lạy Chúa, … Đức Kitô, Con Một Thiên Chúa … Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật … đồng bản thể với Đức Chúa Cha” (Nicene-Constantinople). Như thế chúng ta thấy rằng “Người” ám chỉ một ngôi vị khác, là Chúa Cha.  Do đó chủ thể thứ nhất của câu này là Chúa Cha, Đấng là Thiên Chúa duy nhất cùng với Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

Lời khẳng định này của Kinh Tin Kính không nói về hữu thể vĩnh cửu của Thiên Chúa, mà đúng hơn là nói về một hành động có sự tham gia của Thiên Chúa Ba Ngôi và được thể hiện “ex Maria Virgine (bởi Đức Trinh Nữ Maria)”.  Nếu không có Mẹ, việc Thiên Chúa bước vào lịch sử nhân loại sẽ không đạt đến cùng đích của nó và điều là trung tâm của lời tuyên xưng đức tin của chúng ta: Thiên Chúa là một Thiên Chúa ở cùng chúng ta, cũng không xảy ra.  Vì vậy, Đức Mẹ, một cách không thể chối cãi được, thuộc về đức tin của chúng ta vào Thiên Chúa, là Đấng hành động, là Đấng can thiệp vào lịch sử.  Mẹ hiến dâng toàn thể con người của Mẹ, “đồng ý” trở thành nơi cư ngụ của Thiên Chúa.

Đôi khi, ngay cả trong cuộc hành trình và cuộc sống đức tin của mình, chúng ta có thể cảm thấy sự nghèo nàn của mình, sự bất cập của mình trước việc làm chứng tá để cung ứng cho thế giới.  Nhưng Thiên Chúa đã chọn một người phụ nữ khiêm hạ, trong một ngôi làng vô danh, trong một tỉnh hẻo lánh nhất của đại đế quốc Rôma.  Ngay cả giữa những vấn đề khó khăn nhất phải đương đầu, chúng ta phải luôn luôn tin tưởng vào Thiên Chúa, đổi mới đức tin vào sự hiện diện và hành động của Ngài trong lịch sử của chúng ta, như của Đức Mẹ Maria.  Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể được!  Với Ngài, cuộc sống của chúng ta luôn luôn bước đi trên đất vững vàng và mở ra cho một tương lai đầy hy vọng chắc chắn.

Khi tuyên xưng lời Kinh Tin Kính: “bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria,” chúng ta khẳng định rằng Chúa Thần Thánh, như quyền năng của Thiên Chúa Tối Cao, đã làm việc một cách mầu nhiệm trong việc thụ thai Con Thiên Chúa của Đức Trinh  Nữ Maria.  Thánh sử Luca ghi lại lời của Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel, “Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ bao phủ bà” (1:35). Có hai quy chiếu rõ ràng: thứ nhất là vào lúc tạo dựng.  Ở đầu Sách Sáng Thế Ký, chúng ta đọc rằng “Thần Khí của Thiên Chúa đã là là trên mặt nước” (1:2); chính Thần Khí Tạo Dựng, là Đấng ban sự sống cho tất cả mọi sự và nhân loại.

Điều xảy ra trong Đức Mẹ Maria, nhờ tác động của Thần Khí Thiên Chúa, là một việc tạo dựng mới: Thiên Chúa, Đấng làm cho mọi sự hiện hữu từ hư không, nhờ mầu nhiệm Nhập Thể ban sự sống cho một khởi đầu mới của nhân loại.  Các Giáo Phụ thường nói về Đức Kitô như Adam mới, để đánh dấu sự khởi đầu của việc tạo dựng mới từ việc giáng sinh của Con Thiên Chúa trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria.  Điều này làm cho chúng ta suy nghĩ về cách thế làm sao để đức tin cũng làm phát sinh trong chúng ta một sự mới mẻ mạnh mẽ đến độ gây ra một cuộc tái sinh. Thực ra, ngay từ đầu đời sống Kitô hữu đã có bí tích rửa tội làm cho chúng ta được tái sinh thành con cái Thiên Chúa, chúng ta được thông phần vào mối liên hệ con thảo của Chúa Giêsu với Chúa Cha.  Tôi muốn vạch ra rằng Bí Tích Rửa Tội mà chúng ta đã lãnh nhận, việc chúng ta “được rửa tội”, là điều thụ động – bởi vì không ai tự mình có khả năng trở thành con cái Thiên Chúa: đó là một món quà nhưng không.  Thánh Phaolô nhắc đến việc được nhận làm nghĩa tử này của các Kitô hữu trong một đoạn chính của Thư gửi tín hữu Rôma, ngài viết: “Tất cả những ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa. Vì anh em đã không nhận được thần khí nô lệ làm cho anh em lại phải sợ hãi, nhưng anh em đã nhận Thần Khí làm nghĩa tử, bởi đó cho chúng ta kêu lên, ‘Abba! Cha ơi’” Chính Thần Khí làm chứng cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa.” (8:14-16), chứ không là nô lệ.  Chỉ khi nào chúng ta mở lòng ra cho Thiên Chúa, như Đức Mẹ Maria, chỉ khi nào chúng ta phó thác cuộc đời của mình cho Chúa như một người bạn mà chúng ta hoàn toàn tin tưởng, thì mọi sự sẽ thay đổi, cuộc đời của chúng ta sẽ có một ý nghĩa mới và một khuôn mặt mới: khuôn mặt của những người con của một Chúa Cha, Đấng đã yêu thương chúng ta và không bao giờ ruồng bỏ chúng ta.

Chúng ta đã nói về hai yếu tố: yếu tố thứ nhất là Thần Khí trên mặt nước, Thần Khí Tạo Dựng; còn có một yếu tố khác trong những lời Truyền Tin.

Thiên sứ nói cùng Đức Mẹ Maria: “Quyền năng của Đấng Tối Cao sẽ bao trùm bà”.  Đó là một lời nhắc đến đám mây thánh trong cuộc hành trình Xuất Hành, ngừng lại ở Hội Mạc (Lều Tạm), hòm bia giao ước, mà dân Israel đem theo với họ, và biểu thị sự hiện diện của Thiên Chúa (x. Xh 40 ,40:34-38).  Như thế Đức Mẹ Maria là Lều Tạm thánh mới, là Hòm Bia mới của Giao Ước: qua lời thưa “xin vâng” của Mẹ với những lời của Tổng Lãnh Thiên Thần, Thiên Chúa nhận được một nơi cư ngụ trong thế gian này, Đấng mà cả vũ trụ không thể chứa nổi đã đến để cư ngụ trong cung lòng một trinh nữ.

Như thế, chúng ta hãy trở lại câu hỏi mà chúng ta đã mở đầu, nguồn gốc của Chúa Giêsu, được tổng hợp bởi câu hỏi của Philatô: “Ông từ đâu đến?”  Những suy nghĩ của chúng ta làm sáng tỏ, từ đầu các sách Tin Mừng, nguồn gốc thực sự của Chúa Giêsu là gì: Người là Con Một Chúa Cha, Người đến từ Thiên Chúa.  Chúng ta đứng trước mầu nhiệm cao cả và sửng sốt mà chúng ta cử hành trong Mùa Giáng Sinh này:  Con Thiên Chúa, nhở tác động của Chúa Thánh Thần, đã nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ Maria.  Đây là một lời loan báo vang lên âm thanh luôn luôn mới mẻ, và mang trong nó niềm hy vọng và niềm vui cho tâm hồn chúng ta, bởi vì mỗi lần lời loan báo ấy vang lên nó ban cho chúng ta sự chắc chắn rằng, mặc dù chúng ta thường cảm thấy yếu đuối, nghèo nàn, không có khả năng đương đầu với những thách thức và sự dữ trong thế gian, quyền năng của Thiên Chúa luôn luôn hoạt động và thực hiện những kỳ công trong sự yếu đuối.  Ân sủng của Ngài là sức mạnh của chúng ta (x. 2 Corinthians 12:9-10).  Cảm ơn anh chị em.

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ

2 Corinthians 12:9-10
View in: NAB
9And he said to me: My grace is sufficient for thee; for power is made perfect in infirmity. Gladly therefore will I glory in my infirmities, that the power of Christ may dwell in me.
10For which cause I please myself in my infirmities, in reproaches, in necessities, in persecutions, in distresses, for Christ. For when I am weak, then am I powerful.