Con người được Thiên Chúa cho trở nên công chính bởi niềm tin.

Thứ Sáu Tuần 28 TN1. 

Bài đọc: Romans 4:1-8; Luke 12:1-7.

Nhiều người thiển cận cho sở dĩ họ được như ngày hôm nay là hoàn toàn do tài năng, công sức, và sự cố gắng của họ; mà không kể đến hồng ân của Thiên Chúa, công khó của cha mẹ, và biết bao người đi trước hay đồng thời. Trong lãnh vực đức tin cũng thế, nhiều người cho họ có thể trở nên tốt và được cứu độ nhờ sự cố gắng và những việc tốt lành họ làm.

Các Bài Đọc hôm nay đặt trọng tâm nơi ân sủng của Thiên Chúa và niềm tin của con người vào Ngài. Trong Bài Đọc I, Phaolô dùng Kinh Thánh và kinh nghiệm cá nhân để chứng minh con người trở nên công chính hoàn toàn do việc tin tưởng vào Thiên Chúa; chứ không do việc giữ Luật hay những điều tốt lành con người làm. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu khuyên các môn đệ bày tỏ niềm tin nơi Thiên Chúa qua việc làm bằng cách sống thật với lòng mình, không sợ hãi bất cứ quyền lực nào ngoài Thiên Chúa, và vững tin nơi sự quan phòng của Thiên Chúa.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Lòng tin làm cho con người được Thiên Chúa kể là công chính.

1.1/ Abraham trở nên công chính nhờ tin vào Thiên Chúa: Người Do-thái rất hãnh diện về tổ-phụ Abraham, vì ông được Thiên Chúa coi như bạn nghĩa thiết. Điều Phaolô muốn tranh luận với những người Do-thái ở đây là tại sao tổ-phụ Abraham được Thiên Chúa chọn và kể như người công chính.

(1) Vị thế của những người Do-thái: Họ sẽ nói là vì các việc ông làm; chẳng hạn, việc giữ Luật (mặc dù Luật Thiên Chúa ban qua Moses phải đợi đến ít nhất là 500 năm sau qua các thời của Isaac, Jacob, Joseph … Moses), hay quyết định bỏ quê cha đất tổ để đến một nơi định cư ông chưa biết mà Thiên Chúa sẽ dẫn ông tới; hay việc sẵn lòng sát tế Isaac, đứa con một mà ông có được trong lúc tuổi già.

(2) Vị thế của Phaolô: Đơn giản là vì ông đặt trọn vẹn tin tưởng nơi Thiên Chúa. Phaolô cắt nghĩa: ”Vậy phải nói sao về ông Abraham, tổ phụ dân tộc chúng tôi? Ông đã được gì? Giả như ông Abraham được nên công chính vì những việc ông đã làm, thì ông có lý do để hãnh diện; nhưng không phải là hãnh diện trước mặt Thiên Chúa. Thật vậy, Kinh Thánh nói gì? ”Ông Abraham đã tin Thiên Chúa, và vì thế được kể là người công chính”” (Genesis 15:6).

1.2/ Con người trở nên công chính nhờ tình thương của Thiên Chúa: Phaolô dựa vào bằng chứng Kinh Thánh và kinh nghiệm cá nhân để minh chứng con người được trở nên công chính hoàn toàn do tình thương Thiên Chúa; chứ không do việc làm của con người.

(1) Trường hợp của Abraham: Ông không biết đến Thiên Chúa (vô đạo) và không biết đến Lề Luật (500 năm sau) khi đang còn ở quê cha bên xứ Urs; thế mà Thiên Chúa gọi và mặc khải cho ông để bắt đầu một dân riêng của Thiên Chúa. Điều này hoàn toàn do ý định của Thiên Chúa; nhưng Abraham tin tưởng và đáp lại tiếng gọi của Ngài. Phaolô lý luận: ”Người nào làm việc, thì lương trả cho người ấy không được kể là ân huệ, mà là nợ. Trái lại người nào không dựa vào việc làm nhưng tin vào Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ vô đạo nên công chính, thì lòng tin làm cho người ấy được Thiên Chúa kể là công chính.”

(2) Trường hợp của vua David: Nhà vua không còn xứng đáng gì trước mặt Thiên Chúa sau khi đã ngoại tình với bà Bathsheba, và dùng thủ đoạn để giết ông Uriah, chồng của Bà (2 Kgs 11). Vua David biết rất rõ tội của mình; nhưng nhà vua không phải chết để đền tội là do bởi tình thương của Thiên Chúa. Phaolô dẫn chứng trường hợp của David để chứng minh con người được Thiên Chúa kể như công chính trong khi vẫn còn là tội nhân: “Đó là điều vua David nói khi ca tụng hạnh phúc của người được Thiên Chúa kể là công chính mà không xét đến việc làm: ”Hạnh phúc thay kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung! Hạnh phúc thay người Chúa không kể là có tội!”” (Psalm 32:1-2).

2/ Phúc Âm: Đức tin phải biểu tỏ bằng việc làm.

Con người được trở nên công chính khi vẫn còn là tội nhân; nhưng khi đã được Thiên Chúa cho trở nên công chính, con người phải cải quá tự tân con người mình, để có thể sống cuộc đời cách tốt đẹp hơn. Nhiều người cho việc làm tốt đối với thánh Phaolô là chuyện không cần thiết; nhưng nói như vậy là hiểu sai thánh Phaolô và những lời dạy dỗ của Đức Kitô.

2.1/ Hãy biểu tỏ niềm tin vào Thiên Chúa bằng cách sống theo sự thật: Mặc dù các kinh-sư là những người hiểu biết và tuyên xưng đức tin của họ nơi Thiên Chúa, nhưng cuộc sống giả hình của họ đã không chứng minh sự hiểu biết và niềm tin của họ vào Ngài. Nếu họ hiểu biết Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự thì làm sao họ có thể giấu Ngài lối sống gỉa hình của họ. Vì thế, Chúa Giêsu dặn các môn đệ phải đề phòng: “Anh em phải coi chừng men Pharisees, tức là thói đạo đức giả. Không có gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết. Vì thế, tất cả những gì anh em nói lúc đêm hôm, sẽ được nghe giữa ban ngày; và điều anh em rỉ tai trong buồng kín, sẽ được công bố trên mái nhà.” Một cuộc sống giả hình như thế là đánh lừa Thiên Chúa, đánh lừa tha nhân, và tự đánh lừa mình; làm sao có thể đạt tới cuộc sống đời đời được?

2.2/ Hãy tin và kính sợ Thiên Chúa: Bản năng của con người là ham sống và sợ chết; nhưng nếu con người hiểu những gì sẽ xảy ra sau khi chết, con người sẽ dễ dàng chấp nhận cái chết hơn. Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ biết những điều này: “Thầy nói cho anh em là bạn hữu của Thầy được biết: Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác, mà sau đó không làm gì hơn được nữa. Thầy sẽ chỉ cho anh em biết phải sợ ai: hãy sợ Đấng đã giết rồi, lại có quyền ném vào hoả ngục. Thật vậy, Thầy nói cho anh em biết: anh em hãy sợ Đấng ấy.” Vì thế, nếu phải chấp nhận cái chết để làm chứng cho Chúa, thì con người cũng phải làm vì biết họ sẽ nhận lại cuộc sống trong Vương Quốc đời sau. Các thánh tử đạo cũng là những con người yếu đuối như chúng ta; nhưng niềm tin và ơn thánh của Thiên Chúa đã cho họ can đảm để sẵn sàng chết làm chứng cho Thiên Chúa.

2.3/ Hãy tin vào sự Quan Phòng của Thiên Chúa: Ngòai cái chết, con người còn lo sợ về thiếu những nhu cầu để sinh sống hay bệnh tật. Chúa Giêsu dạy các môn đệ cũng phải vứt đi những lo sợ này và tin tưởng hòan tòan nơi tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngài bảo các ông: “Năm con chim sẻ chỉ bán được hai hào, phải không? Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa. Ngay đến tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi. Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Chúng ta được trở nên công chính là hoàn toàn do công trạng của Đức Kitô và niềm tin của chúng ta vào Ngài; nhưng một khi đã được trở nên công chính, chúng ta cần chứng tỏ đức tin nơi Thiên Chúa bằng các việc làm cụ thể để mưu cầu lợi ích cho chính chúng ta và góp phần vào việc mở mang Nước Chúa.

– Chúng ta cần học hỏi để hiểu biết sự Quan Phòng và Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa. Có những điều xảy ra trong cuộc đời trong sự Quan Phòng của Thiên Chúa, nhưng ngòai sự kiểm sóat của con người: bệnh tật, già yếu, sự chết… Con người có lo sợ cũng chẳng thóat khỏi, chi bằng phó thác hòan tòan vào tình yêu Thiên Chúa và Kế Họach Cứu Độ của Ngài.

LM. Anthony Đinh Minh Tiên, OP

loinhapthe.com

Romans 4:1-8
View in: NAB
1What shall we say then that Abraham hath found, who is our father according to the flesh.
2For if Abraham were justified by works, he hath whereof to glory, but not before God.
3For what saith the scripture? Abraham believed God, and it was reputed to him unto justice.
4Now to him that worketh, the reward is not reckoned according to grace, but according to debt.
5But to him that worketh not, yet believeth in him that justifieth the ungodly, his faith is reputed to justice, according to the purpose of the grace of God.
6As David also termeth the blessedness of a man, to whom God reputeth justice without works:
7Blessed are they whose iniquities are forgiven, and whose sins are covered.
8Blessed is the man to whom the Lord hath not imputed sin.
Luke 12:1-7
View in: NAB
1And when great multitudes stood about him, so that they trod one upon another, he began to say to his disciples: Beware ye of the leaven of the Pharisees, which is hypocrisy.
2For there is nothing covered, that shall not be revealed: nor hidden, that shall not be known.
3For whatsoever things you have spoken in darkness, shall be published in the light: and that which you have spoken in the ear in the chambers, shall be preached on the housetops.
4And I say to you, my friends: Be not afraid of them who kill the body, and after that have no more that they can do.
5But I will shew you whom you shall fear: fear ye him, who after he hath killed, hath power to cast into hell. Yea, I say to you, fear him.
6Are not five sparrows sold for two farthings, and not one of them is forgotten before God?
7Yea, the very hairs of your head are all numbered. Fear not therefore: you are of more value than many sparrows.
Genesis 15:6
View in: NAB
6Abram believed God, and it was reputed to him unto justice.
Psalm 32:1-2
View in: NAB
1To David himself, understanding. Blessed are they whose iniquities are forgiven, and whose sins are covered.
2Blessed is the man to whom the Lord hath not imputed sin, and in whose spirit there is no guile.