Để phong hiển thánh cho Đức Gioan XXIII và Đức Gioan Phaolô II cùng một lúc, Đức Phanxicô đã không ngần ngại bỏ qua thủ tục phong hiển thánh bằng cách không chờ đợi việc xác nhận phép lạ thứ hai nhờ lời cầu bầu của Đức Gioan XXIII. Và chắc chắn đây là hành động đúng. Dĩ nhiên, Đức Gioan XXIII và Đức Gioan Phaolô II có nhiều điều khác nhau, nhưng các ngài cũng có nhiều điểm chung với nhau. Không có Đức Gioan XXIII, có lẽ sẽ không có Đức Gioan Phaolô II. Việc cùng một lúc phong hiển thánh cho hai ngài làm chứng cho sự kiện này: Giáo Hội là một định chế luôn cần được cải tổ (campagna semper reformanda) như Đức Bênêđíctô XVI quen nhấn mạnh. Đồng thời việc này cũng cho thấy mọi mảng lịch sử của định chế này đều được liên kết với các mảng khác, như các mảnh ăn khớp với nhau trong trò chơi đố ghép (puzzle).
Hai vị cùng sẽ được phong hiển thánh vào ngày 27 sắp tới có gì chung với nhau? Trước hết, hai vị đều là giáo hoàng, các giáo hoàng thánh thiện. Các ngài sống thực một cách sâu sắc nền linh đạo linh mục của mình, như khẩu hiệu giám mục của các ngài cho thấy. Đức Gioan XXIII chọn khẩu hiệu «Oboedientia et Pax» (Vâng Lời Và Bình An); Đức Gioan Phaolô II thì chọn khẩu hiệu «Totus tuus» (Tất Cả là Của Mẹ), đặt trọn niềm tin nơi Thánh Nữ Đồng Trinh Maria.
Nhưng cuộc sống của các ngài có khác nhau. Đức Gioan Phaolô II mất mẹ trước khi rước lễ lần đầu và mất cha lúc 21 tuổi, sống ơn gọi linh mục trong tư cách một cha xứ và sau đó là giám mục tại Ba Lan. Đức Gioan XXIII được dưỡng dục trong một gia đình đông người, được Tòa Thánh phái tới Thổ Nhĩ Kỳ, Bảo Gia Lợi và Pháp làm khâm sứ rồi sứ thần. Công việc ngoại giao đã rèn nên đức tin và viễn ảnh của ngài về Giáo Hội. Một Giáo Hội có tính bao gồm, đại kết và đối thoại với thế giới. Bài giảng Lễ Chúa Thánh Thần tại Thổ Nhĩ Kỳ năm 1944, tức thánh lễ cuối cùng của ngài tại đó trước khi qua Bảo Gia Lợi, là một điền hình sống động cho thấy tư tưởng của Đức TGM Angelo Giuseppe Roncalli. Ngài nói rằng các Kitô hữu thuộc mọi nhóm tuyên tín rất thích phân biệt họ với những nhóm không tuyên xưng cùng một đức tin như họ, bất kể đó là “người Chính Thống, người Thệ Phản, người Do Thái, người Hồi Giáo, người tin hay người không tin”. Nhưng theo ngài, cho dù “sự đa dạng về sắc tộc, ngôn ngữ, giáo dục, hay các dị biệt đau thương của một quá khứ buồn thảm có giữ chúng ta xa cách nhau đi chăng nữa, dưới ánh sáng Tin Mừng, ta nhận thấy Chúa Kitô đã đến phá sập các bức tường; Người chết để công bố tình huynh đệ phổ quát của chúng ta; tâm điểm giáo huấn này chính là tình yêu nối kết mọi người với Người như là anh cả của các em, và nối kết Người và chúng ta với Chúa Cha”.
Phá sập các bức tường
Hãy phá sập các bức tường: những lời này chính là lệnh tiến bước, hơn bất cứ điều gì khác, vốn nối kết hai vị giáo hoàng thánh thiện này. Cố gắng đại kết đã được Đức Gioan Phaolô II thúc đẩy mạnh mẽ; ngài đã vượt quá ngoại giao để chủ trương nhiều cử chỉ tiên tri khi đương đầu với nền chính trị tôn giáo. Khi tới Hy Lạp năm 2001 trong tư cách vị giáo hoàng đầu tiên tới đó trong 1281 năm, ngài bình thản lắng nghe một danh sách dài gồm tới 13 lời kết án về 13 thứ tội mà người Chính Thống Hy Lạp không ngần ngại nói lên để chống lại Giáo Hội Công Giáo. Sau đó, ngài ngỏ lời xin lỗi về những sai lầm đã phạm. Sau cùng, trong một cuộc gặp gỡ lịch sử tại Areopagus, ngài khẳng định với TGM Christodoulos sự cam kết chung trong việc bảo vệ nguồn gốc Kitô Giáo của Âu Châu. Sau đó, phá bỏ sự cấm kị không cầu nguyện chung giữa Chính Thống và Công Giáo, ngài đã đọc kinh Lạy Cha với TGM Hy Lạp.
Đức Gioan XXIII cũng đã bắt đầu phá sập bức tường vô hình của Bức Màn Sắt khi Liên Bang Xô Viết cảm nhận những vết nứt đầu tiên của nó. Năm 1961, Tổng Bí Thư lúc đó của Đảng Cộng Sản Nga là Nikita Krushchev đã thực hiện biến chuyển đầu tiên trong việc thiết lập truyền thông với Đức Giáo Hoàng bằng cách gửi thông điệp chúc mừng sinh nhật thứ 80 của Đức Gioan XXIII. Đức Giáo Hoàng đã hồi âm, và thế là một ngả tiếp xúc bán chính thức đã được mở ra. Khi cuộc khủng hoảng hỏa tiễn ở Cuba nổ ra năm 1962, Đức Gioan XXIII là thế giá tinh thần duy nhất được cả đôi bên đối nghịch nhìn nhận. Các nhận định công khai của ngài, được chính ngài viết lại gần như hoàn toàn, đã được nhật báo Pravda, tiếng nói của Cộng Sản, đăng tải. Nhờ thế cuộc khủng hoảng hỏa tiễn đã được vượt qua.
Pacem in terris: dấu chỉ thời đại
Thành quả của sáng kiến trên đã thuyết phục Đức Gioan XXIII viết thông điệp Hòa Bình Trên Trái Đất. Xây dựng trên sự thật, nhân phẩm, tự do và tự do tôn giáo như bốn cột trụ, thông điệp này là mục tiêu viễn tưởng của Đức Gioan XXIII, và hiện nay vẫn còn hợp thời. Đức Gioan XXIII muốn thông điệp này được viết theo lối cách tân. Làm nền tảng cho thông điệp này là dấu chỉ thời đại, niềm khát mong có nhân phẩm của con người, tự do và hòa bình. Từ viễn tượng này, trọn bộ các khát vọng của con người đều được nhìn dưới ánh sáng Tin Mừng, và các cố gắng để thể hiện chúng đã tạo ra việc theo đuổi nền nhân bản toàn diện, một nền nhân bản sẽ trở thành lệnh tiến bước của Đức Phaolô VI.
Lần đầu tiên trong lịch sử, một thông điệp đã không dựa vào mạc khải mà là dựa vào các dấu chỉ của thời đại. Phương pháp qui nạp này sau đó sẽ được áp dụng vào hiến chế mục vụ “Vui Mừng Và Hy Vọng” của Công Đồng Vatican II.
Hào quang của “Hòa Bình Trên Trái Đất” cũng đã làm say mê một giám mục trẻ lúc đó đang tham dự Công Đồng Vatican II, Đức Cha Karol Wojtyla. Vị giám mục này từng kinh qua chủ nghĩa Quốc Xã và chủ nghĩa Cộng Sản, hai hình thức toàn trị lúc ấy đang rúng động Âu Châu. Việc ngài chống lại mọi hình thức toàn trị đã dẫn tới chủ trương triệt để chống mọi chế độ cộng sản của ngài. Ngài chống đối chúng không qua việc trực tiếp phản đối hay tấn công trực diện. Thay vào đó, ngài chăm dưỡng giới trẻ, giáo dục họ về ý nghĩa của tự do và nhân phẩm. Đây là một nền nhân bản cứu thế giới.
Bình thường hóa quan hệ
Đức Cha Wojtyla là một trong các vị tích cực nhất trong việc soạn thảo văn kiện “Dignitatis humanae” của Công Đồng. Văn kiện này là khí cụ cực kỳ có giá trị đối với mọi giám mục đang ở bên kia bức Màn Sắt, là những vị lấy hứng từ nó mà tổ chức ra mặt trận chống đối cách âm thầm. Đức Cha Wojtyla liên kết việc bảo vệ nhân phẩm với ý niệm quốc gia, một ý niệm ngài coi như tương phản với ý niệm nhà nước.
Trong khi ấy, điều gọi là Bình Thường Hóa Quan Hệ (Ostpolitik) của Vatican bắt đầu được khởi động. Đức HY Agostino Casaroli được phái tới các nước ở bên kia bức Màn Sắt, thoạt đầu bởi Đức Gioan XXIII, sau đó bởi Đức Phaolô VI. Ngài đã khởi diễn một cuộc đối thoại đầy khó khăn, bằng một chính sách “hết bước này tới bước khác” mà chính ngài định nghĩa là “tử đạo bằng kiên nhẫn”. Ngài xây dựng được các mối liên hệ dẫn tới việc giảm nhẹ các điều kiện khắt khe vốn được các chế độ cộng sản áp đặt lên Kitô hữu.
Khi được bầu làm giáo hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã chọn Đức HY Casaroli làm Quốc Vụ Khanh. Chủ trương mạnh mẽ của Đức Giáo Hoàng về tự do và nhân phẩm đã khơi lên nhiều khát vọng nơi những người đang sống tại các nước thuộc Hiệp Ước Warsaw. Cùng một lúc, nền ngoại giao của Đức HY Casaroli vẫn duy trì liên hệ với các nước Cộng Sản dữ dằn nhất, đem lại cho chủ trương của Đức Giáo Hoàng nhiều hỗ trợ có tính bảo vệ.
Trong khi ấy, Đức HY Paul Poupard, Quốc Vụ Khanh dưới thời Đức Gioan XXIII và Đức Phaolô VI, được Đức Gioan Phaolô II cử đứng đầu Văn Phòng Người Vô Tín Ngưỡng, và trong khả năng này, ngài đã khởi diễn cuộc đối thoại văn hóa với các nhà triết học và trí thức của các nước ở bên kia bức Màn Sắt.
Một bên là chủ trương của Đức Gioan Phaolô II; một bên là nền ngoại giao của Đức HY Casaroli. Ở hậu cảnh, là cuộc đối thoại văn hóa. Chính đó là lý do làm cho một bức tường khác bị phá sập, đó là bức tường Bá Linh. Các hình ảnh bức tường sụp tượng trưng cho sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản Âu Châu và sự chiến thắng của người Công Giáo.
Nếu không có Đức Gioan XXIII, thì không điều gì kể trên có thể diễn ra. Vị “giáo hoàng mục tử” Gioan XXIII quả là một nhà ngoại giao tinh tế. Từ triều giáo hoàng của ngài trở đi, ảnh hưởng của Tòa Thánh trên vũ đài quốc tế đã gia tăng đáng kể.
Đức Gioan Phaolô II tiếp nối di sản trên. Ngài thường hay thách thức Liên Hiệp Quốc, khi nói tới tự do tôn giáo tại Trụ Sở LHQ ở New York. Ngài cũng phê phán ý thức hệ phái tính và ý niệm y tế sinh sản (reproductive health) của các hội nghị Cairo và Bắc Kinh thập niên 1990. Trong khi đó, các nhà ngoại giao của Vatican, những người đầy kỹ năng và tinh tế, đã khôn khéo lồng ý niệm phát triển nhân bản toàn diện, như một thứ “vi khuẩn tích cực”, vào các văn kiện quốc tế.
Thí dụ, trong văn kiện của LHQ công bố năm 1985.
Cùng một phương pháp: đối thoại
Sau cùng, cả Đức Gioan XXIII lẫn Đức Gioan Phaolô II đều theo cùng một phương pháp, bao gồm việc đối thoại với thế giới và hành động. Trong một nhận định ngoài bản văn soạn sẵn đề cập tới việc do đâu ý niệm Ngày Giới Trẻ Thế Giới đã phát sinh, Đức Gioan Phaolô II cho thấy phương pháp này đã được thi hành ra sao: “Đó là năm 1984, người bạn lớn của chúng ta là Liên Hiệp Quốc đã thiết lập ra Năm Giới Trẻ. Họ công bố, họ đưa ra kế hoạch. Chúng tôi thực hiện kế hoạch ấy!”.
Tính tự phát này đã phá sập các bức tường. Đức Gioan XXIII mở cánh cửa đưa vào Công Đồng Vatican II bằng cách mở chiếc cửa sổ tại Tông Dinh vào ngày 11 tháng 10, năm 1963, để giảng bài giảng nổi tiếng của ngài về mặt trăng, yêu cầu người ta “vuốt ve con cái họ”. Đức Gioan Phaolô II cũng mở một chiếc cửa sổ cho người ta thấy họ có thể chờ mong chi ở triều giáo hoàng của ngài trong Thánh Lễ khai mạc thừa tác vụ Phêrô: “Hãy mở rộng các cửa ra vào cho Chúa Kitô. Hãy mở rộng các biên giới Nhà Nước, các hệ thống kinh tế và chính trị, những lãnh vực mênh mông của văn hóa, văn minh và phát triển cho sức mạnh cứu rỗi của Người. Đừng sợ hãi. Chúa Kitô biết rõ “trong con người có gì”. Chỉ một mình Người biết điều ấy”.
Vũ Văn An
Nguồn: VietCatholic