Luca 7,36–8,3 – CN XI TN – C
Tin Mừng làm cho người ta ý thức về lầm lỗi của họ và ý thức mình cần được thanh tẩy.
1.- Ngữ cảnh
Toàn chương 7 Lc được bố trí xung quanh chứng từ của Đức Giêsu về Gioan Tẩy Giả: bắt đầu là hai bài tường thuật về phép lạ (7,1-10 và 7,11-17); sau đó là bài tường thuật về người phụ nữ tội lỗi (7,36-50); ở giữa là ba hoạt cảnh diễn tả quan hệ giữa Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu (7,18-23; 7,23-30; 7,31-35). Chúng ta có thể cho rằng ngữ cảnh là như sau: Ở trong tù, Gioan đã cho người đi gặp Đức Giêsu mà đặt câu hỏi: “Thầy có thật là Đấng phải đến không?…” (7,20). Như Người đã làm trong diễn từ khai mạc ở Nadarét, Đức Giêsu trả lời bằng cách trích ngôn sứ Isaia (26,19; 35,5t; 61,1). Nhưng Người thay thế câu “Hôm nay đã ứng nghiệm …” (4,21) bằng các hành vi: “Người chữa nhiều người khỏi bệnh hoạn tật nguyền…” (7,21). Người muốn chứng minh cho Gioan và các đồ đệ ông biết rằng Người đúng là Đấng phải đến, bởi vì Người làm ứng nghiệm Kinh Thánh. Hai phép lạ được nêu ra ở đầu ch. 7 (chữa người nô lệ của viên sĩ quan; cho con trai bà góa Nain sống lại) là như một yếu tố để chứng minh. Đứng trước phép lạ Nain, đám đông đã reo lên: “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta” (7,16). Vậy Đức Giêsu đúng là vị ngôn sứ được Kinh Thánh loan báo, và Gioan có nhiệm vụ dọn đường cho Người.
Nhưng Người đã được đón tiếp như thế nào? Khi những người Gioan cử đến đã đi, Đức Giêsu giải thích: có những người, đó là toàn dân và đặc biệt những người bị khinh bỉ nhất, những người thu thuế, đã “biện minh” cho Thiên Chúa, đã cho thấy rằng Ngài có lý, khi xin Gioan làm phép rửa cho mình; còn những người khác, những người Pharisêu và các thầy thông luật, khi từ khước phép rửa này, đã làm cho chương trình của Thiên Chúa nên vô ích cho họ.
Có hai yếu tố của bản văn trên đây được nhắc lại trong hoạt cảnh Người phụ nữ tội lỗi, nên đã liên kết hoạt cảnh này vào văn cảnh trên. 1) Tư cách ngôn sứ: Câu nói của người Pharisêu là “Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào…” (c. 39); thế mà Đức Giêsu đã trả lời bằng một hành vi: tha tội. 2) Tiếp đón: Vị ngôn sứ này đã được tiếp đón cách tuyệt vời bởi con người bị khinh bỉ nhất, một phụ nữ tội lỗi. Vậy bản văn này phải được kể là thuộc về toàn bộ ch. 7. Đây chính là lối viết văn quen thuộc của tác giả Lc: ngài thích viết các truyện thành hai bảng. Trong bảng thứ nhất, ngài cho thấy cách thức Kinh Thánh được hoàn tất bởi và nơi Đức Giêsu. Sau đó, có một câu hỏi hoặc một sự cố khơi lại đề tài, và Lc sẽ cho thấy rằng cách thức Đức Giêsu hoàn tất Kinh Thánh thì đẹp và sâu hơn nhiều so với những gì chúng ta có thể hy vọng hoặc tưởng tượng (x. Hoạt cảnh Truyền tin; hoạt cảnh Đức Giêsu trước Thượng Hội Đồng).
Bài đọc Phụng vụ nối thêm vào một đoạn nhỏ nói về các phụ nữ “đi theo” Đức Giêsu, tức là làm môn đệ Người.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Đức Giêsu, ông Pharisêu và người phụ nữ tội lỗi (7,36-50):
1- Phần một (cc. 36-40):
A (36-38)
B (39)
C (40-43)
2- Phần 2 (44-50)
A’ (44-46)
C’ (47)
B’ (48-50)
2) Các phụ nữ đi theo Đức Giêsu (8,1-3).
* Trình bày kết cấu của 7,36-50:
Chúng ta có thể chia bản văn thành hai phần. Cả hai phần đều bắt đầu bằng cử chỉ của Đức Giêsu là “vào” nhà ông Pharisêu Simôn và nhấn trên sự hiện diện của người phụ nữ. Cả hai phần đều nêu ra các cử chỉ của bà này (cc. 37-38) mà đối lập với ông Pharisêu trong phần 2 (cc. 44-46). Do đó, ta có thể đặt song song hai phần nhỏ A (cc. 36-38) và A’ (cc. 44-46).
Hai câu hỏi “trong lòng” (nghĩ bụng) về căn tính của Đức Giêsu cho phép xác định hai phần nhỏ khác là B (c. 39) và B’ (cc. 48-50). Hai phần nhỏ này không có cùng một vị trí như nhau. Tương ứng với phần C (cc. 40-43) trong đó có bài dụ ngôn nhỏ Hai con nợ, là lời tha tội ở C’ (c. 47).
Vậy lược đồ của toàn bản văn là A-B-C x A’-C’-B’. Cấu trúc này xoay quanh chủ đề “xét đoán” (krinô) được diễn tả bởi chi câu trung tâm là c. 43b. Trong phần 1, người “nghĩ bụng (tự nhủ, en heautô) là ông Pharisêu Simôn, ông nghi ngờ căn tính ngôn sứ của Đức Giêsu vì có liên quan đến căn tính của người phụ nữ tội lỗi. Cũng ông Simôn đã được mời dựa vào dụ ngôn và đoán xét về lòng biết ơn của hai con nợ. Trong phần 2, người “xét đoán” là Đức Giêsu, Người tỏ cho thấy là Người biết người phụ nữ có “nhiều tội”, nhưng đồng thời cũng biết là chị ấy “mến” nhiều. Những người đồng bàn “nghĩ bụng” (en heautois) về khả năng của Đức Giêsu là tha tội. Cuối cùng, cả hai phần kết thúc bằng hai từ tương tự: “tha, charizô” (c. 43a) và “cứu, sôzô” (c. 50). Chiều kích “xét đoán” nằm tại trung tâm của mỗi phần: trong B, người Pharise6u xét đoán người phụ nữ và Đức Giêsu, còn trong C’, Đức Giêsu xét đoán (tích cực) người phụ nữ khi chặn ông Pharisêu.
3.- Vài điểm chú giải
– Có người thuộc nhóm Pharisêu mời Đức Giêsu dùng bữa (7,36): TM Lc là Tin Mừng duy nhất cho thấy có ba lần Đức Giêsu được người Pharisêu mời dùng bữa (ở đây; 11,37 và 14,1). Ở chỗ khác, ta thấy người Pharisêu đối xử tốt với Đức Giêsu, chẳng hạn khi họ báo cho Người biết là Hêrôđê tìm giết Người (13,31). Có lẽ Lc gần với thực tế lịch sử hơn Mc và nhất là Mt. Phải chăng Lc có cách nhận định mềm dẻo như thế vì ngài đã chịu ảnh hưởng tông đồ Phaolô, mà vị này thì rất tự hào về tư cách Pharisêu (Pl 3,5; Cv 23,6; 26,5).
– vào bàn ăn (7,36): Bản Hy Lạp là keteklithê, “nằm dài ra”. Như vậy, Đức Giêsu đã được mời ăn tiệc, bởi vì trong các bữa ăn thường, người ta ngồi.
– một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành (7,37): Theo các truyền thống của Họi Thánh Tây phương, ít ra từ thời Đức Grêgôriô Cả, người ta đã đồng hóa cô Maria Bêtania với người phụ nữ tội lỗi miền Galilê, và thậm chí với Maria Mácđala (8,2). Tuy nhiên, cách đồng hóa này không có cơ sở trong Tân Ước. Chị này tội lỗi có thể vì là một cô gái điếm, hay là vì đang sống trong một hoàn cảnh hôn nhân không bình thường, hoặc là vợ của một người làm một nghề bất chính (thu thuế, chăn chiên v.v.)? Ta loại bỏ nghĩa cuối cùng, vì c. 49 rõ ràng nhắm đến các tội lỗi cá nhân.
– một bình bạch ngọc đựng dầu thơm (7,37): Thường các bình này được làm bằng đá mềm, với đủ thứ hình dạng.
– lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người (7,38): Lc không cho biết nguyên do khiến chị này khóc. Các nhà chú giải thường phỏng đoán là chị ấy khóc vì hối hận. Nhưng biết đâu chị cũng khóc vì vui sướng, do đã được cảm nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa.
– hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên (7,38): Đây là những cử chỉ bày tỏ lòng biết ơn và tôn kính dành cho Đấng được nhìn nhận là tác nhân đưa lại ơn cứu độ của Thiên Chúa. Người ta hôn đầu gối hoặc bàn chân là để bày tỏ lòng biết ơn sâu xa.
– ông này là ngôn sứ (7,39): Các ý nghĩ của người Pharisêu phản ánh niềm tin thông thường: một ngôn sứ thì phải có khả năng nhận ra được tính cách của các con người mà họ tiếp xúc.
– Thưa Thầy (7,40): Simôn coi Đức Giêsu như là một trong các vị thầy đáng kính của xứ Paléttina. Danh hiệu didaskalos được dùng để gọi Gioan Tẩy Giả (3,12), nay được gán cho Đức Giêsu lần đầu tiên.
– mến chủ nợ (7,42): Các hành vi của chị là những hành vi diễn tả lòng biết ơn; thế nhưng Đức Giêsu lại nói đến “lòng mến”. Đó là vì tiếng Híp-ri, A-ram, Xy-ri không có động từ “cám ơn” hay danh từ “lòng biết ơn”, nên phải dùng một từ ngữ khác để diễn tả; ở đây là từ “yêu mến” (x. c. 42: cc. 44-46 // c. 47).
– Được tha nhiều vì/nên (hoti) đã yêu mến (7,47a): Có thể dịch hai cách: (i) Chị đã được tha nhiều vì đã yêu mến nhiều (= kết quả); (ii) Chị đã được tha nhiều nên đã yêu mến nhiều (= nguyên nhân). Muốn ăn khớp với ngữ cảnh, nên hiểu theo cách thứ hai: Người ta nhận ra được là chị đã được tha nhiều ở chỗ chị yêu mến nhiều. Chính kết luận của Đức Giêsu ở c. 47b cũng khẳng định như vậy, cùng với lời tiếp theo: “Tội của chị đã được tha rồi” (c. 48).
– mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh (8,2): Ta có thể kể ra cả mẹ vợ Simôn (4,38-39), nhưng có thể cho rằng bà ở lại nhà chứ không đi theo Đức Giêsu. Còn các bà khác hẳn là được nhắc đến trong các chi tiết ở 4,40-41 và 6,17-19.
– đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ (8,3): Các mà dùng cách này để bày tỏ lòng biết ơn đối với Đức Giêsu. “Giúp đỡ”, dịch sát là “phục vụ” (diakonein). Từ này được dùng để chỉ hoạt động của các tông đồ (Cv 1,17.25) và của bảy trợ tá (Cv 6,1), và nhất là của chính Đức Giêsu (Mc 10,45; Lc 22,27).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu, ông Pharisêu và người phụ nữ tội lỗi (36-50)
Đức Giêsu được ông Pharisêu tên là Simôn mời ăn tiệc; đây là dấu chứng tỏ ông tôn kính Người, vì ông nghĩ Đức Giêsu có thể là một ngôn sứ (x. c. 39), hoặc ít ra Người cũng là một vị thầy du thuyết, đã có lần lên tiếng trong hội đường. Tuy nhiên, hoàn cảnh vẫn có tính hàm hồ. Ông chủ nhà nghĩ mình là người quan trọng, ông nắm hoàn cảnh trong tay, ông không phải đánh liều gì cả: ông đã tiếp đón Đức Giêsu nhưng với một mức lịch sự tối thiểu bởi vì ông mong muốn làm vui lòng mọi người. Bằng cách mời Đức Giêsu đến ăn tiệc, ông chứng tỏ ông có tâm trí cởi mở, có khả năng để ý đến các tư tưởng mới, một con người có một trí thông minh nào đó; tuy nhiên, bằng cách bỏ qua những cách tiếp khách quen thuộc (“Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi… Ông đã chẳng hôn tôi một cái”, cc. 44-45), ông luôn luôn có thể nói rằng ông đã giữ khoảng cách và chỉ làm một chuyện là ngó tới Người để nghe xem Người nói gì mà thôi.
Thái độ của ông chủ như thế hẳn đã làm cho bầu khi ra căng thẳng và nặng nề rồi; những người khác lại cũng đang trông chừng nhau và hẳn là cũng nói những chuyện chung chung để khỏi làm mất lòng ai.
Giữa tình thế ấy, một người phụ nữ đi vào, lại là “một người tội lỗi trong thành”, ai cũng biết (c. 37). Bà này bất kể các quy ước xã hội, bà không sợ hãi gì cả, bà tiến đến. Rồi bằng một cử chỉ thú nhận tội lỗi công khai, bà bày tỏ với Đức Giêsu những dấu chỉ diễn tả là quý mến, lòng biết ơn và tôn kính mà không một ai đã bày tỏ với Người trước đó: “lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người” (c. 38; x. c. 44), “lấy tóc mình mà lau” (c. 38; x. c. 44), “hôn chân Người” (c. 38; x. c. 45), “và lấy dầu thơm mà đổ lên” (c. 38; x. c. 46). Lòng biết ơn của bà chan hòa đến độ bà không ngại xõa tóc ra để lau chân Đức Giêsu, cho dù bỏ khăn và xõa tóc ra trước mặt phái nam là một sự ô nhục cùng cực. Bà đã làm như thế, vì bà quá sợ khi thấy nước mắt mình làm hoen ố chân Đức Giêsu, sợ đến mức quên những người đang ở chung quanh.
Không một ai đã dám làm một cử chỉ đánh liều; người phụ nữ này đã liều một bước lớn: Đức Giêsu sẽ làm gì, Người đứng về phía nào? Đức Giêsu lại chứng tỏ sự khéo léo mà lật ngược các hoàn cảnh. Người không bắt đầu với một lời trách; Người hành động cách cẩn thận. Người kể một dụ ngôn cho Simôn: “Một chủ nợ kia có hai con nợ…” (cc. 41tt), rồi đến cuối, Người hỏi ông một câu để ông nhận định. Ông đã “xét đúng” về câu chuyện, theo hình thức (c. 43): Kẻ được tha nhiều hơn, thì yêu mến nhiều hơn. Thật ra đây là một lý luận theo số lượng. Nhưng từ đó Đức Giêsu đưa ông đến chỗ biết rằng theo cái nhìn của Thiên Chúa, và cũng từ quan điểm của sự thành thật con người, hoàn cảnh này hoàn toàn ngược lại với những gì mỗi người đang nghĩ. Ông “xét đúng” câu chuyện, nhưng ông lại xét sai những con người (người phụ nữ và Đức Giêsu). Ông có một cái bên ngoài đúng đắn, có học thức và lịch thiệp, và có một cái bên trong đối lập với người phụ nữ và Đức Giêsu. Kẻ không mời mà đến, kẻ phải thật sự xấu hổ về chính mình, kẻ không đã biết cách cư xử, chính là Simôn; còn người đã xử sự đúng như hoàn cảnh đòi hỏi, đáp trả theo một cách đúng là người, đó là người phụ nữ: bà là người đã hiểu và đã nắm lấy đúng hoàn cảnh.
Nói cho cùng, từ ngữ “tình yêu” tuy không được viết ra, lại là từ ngữ trung tâm: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều” (c. 47). Thật ra, những người tội lỗi, những người không tin nên không mở ra với ân sủng của Đức Giêsu cũng là những người tưởng mình công chính. Đức Giêsu vẫn tiếp tục đồng bàn với họ. Như thế, có một sự lật ngược tình thế, đó là: Đức Giêsu mà người Pharisêu chỉ trích vì “đồng bàn” với người thu thuế và kẻ tội lỗi, cũng là Đức Giêsu không ngại đồng bàn với những kẻ vẫn tưởng mình đàng hoàng, nhưng thật ra có con tim khép kín với tình yêu và sự tha thứ. Với cả hai bên, Đức Giêsu đều có thể nói: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5,32).
* Các phụ nữ đi theo Đức Giêsu (1-3)
Qua đoạn văn nhỏ này, chúng ta thấy Họi Thánh đã có trước khi Đức Giêsu chết và sống lại. Họi Thánh gồm có Nhóm Mười Hai, và có cả một nhóm các phụ nữ. Họ cũng có một vị trí và một vai trò trong Họi Thánh. Tin Mừng Lc đã tỏ ra đặc biệt quan tâm đến các phụ nữ: tác giả cho thấy, trong khi họ bị khinh bỉ vào thời đó, Đức Giêsu kết hợp họ vào hoạt động của Người: họ phục vụ (diêkonoun, giúp đỡ, 8,3) Người, như các trợ tá, như các tông đồ và hơn nữa, như chính Đức Giêsu. Việc “phục vụ” này là thái độ căn bản của người Kitô hữu.
+ Kết luận
Toàn bản văn hôm nay như nói về chính chính hành trình thiêng liêng của chúng ta. Trước mặt Đức Giêsu, mỗi người chúng ta biết mình là người tội lỗi. Chính vì Người là ngôn sứ mà Đức Giêsu biết rõ mỗi người chúng ta như thế. Nhưng vì Người cũng là Đấng Cứu độ, là Lòng Từ bi của Thiên Chúa nhập thể, nên Người đã đến với chúng ta và tha thứ cho chúng ta. Phía chúng ta, chúng ta đã và sẽ làm gì để bày tỏ lòng biết ơn?
5.- Gợi ý suy niệm
1. Tìm cách làm vui lòng mọi người mà không phải “trả giá” đúng là cách cư xử chúng ta có thể rơi vào: chúng ta làm việc gì đó nhưng theo cách mà không ai có thể chỉ trích chúng ta, và như thế, chúng ta cẩn thận tiến đi giữa hai ý kiến mà không nhận lấy ý kiến nào cả. Thật ra cũng có khi điều này là cần thiết do hoàn cảnh, nhưng cũng chắc chắn là người nào sống như thế thì không sống đầy; người ấy giống như Simôn, chuẩn bị một bữa tiệc mời Đức Giêsu mà lại để cho bầu khí căng thẳng và nặng nề. Kêrygma làm ra như thế: nó đảo lộn các hoàn cảnh, làm cho những người nghĩ mình làm chủ tình hình phải xấu hổ và nâng cao những người hành động trong một tinh thần khiên nhường, sự thật và đơn sơ, vì muốn hiến mình, vì muốn làm một điều gì hơn, vì muốn đánh liều vì yêu thương.
2. Tin Mừng làm cho người ta ý thức về lầm lỗi của họ và ý thức mình cần được thanh tẩy: không phải bằng những lời trách móc nghiêm khắc khiến người ta rơi vào thế tự vệ, nhưng bằng cách ban cho người ta sự can đảm, sự cương quyết và tự do. Chính tất cả những điều này sẽ giúp người ta sẵn sàng đi tìm sự thanh tẩy và đạt được ơn Thiên Chúa tha thứ, khiến cuộc đời mình thay đổi hoàn toàn.
3. Nếu loan báo Tin Mừng có nghĩa là đưa đến một cuộc giải phóng bên trong để con người đạt được tiềm năng sẵn có của mình, khả năng của mình, là tự diễn tả ra và thắng vượt khối nặng các tội lỗi, thì người loan báo Tin Mừng phải cho thấy là tất cả mọi điều này đều đã và đang đúng nơi chính mình. Chính Đức Giêsu đã chứng tỏ điều đó bằng cả cuộc sống của Người.
4. Đi xưng tội là xưng thú các tội mình đã phạm, nhưng trước tiên là tuyên xưng rằng Thiên Chúa thật là cao cả trong tình yêu của Ngài, là loan báo Tin Mừng cứu độ nơi Đức Giêsu Kitô. Có ý thức rằng Thiên Chúa là tình yêu cứu độ, chúng ta mới đến với Ngài để được cứu độ; có ý thức chúng ta được tha thứ nhiều, chúng ta mới có lòng biết ơn và biết diễn tả lòng biết ơn bằng lời nói và nhất là bằng đời sống, trong các quan hệ hằng ngày.
Lm PX Vũ Phan Long, ofm
nguồn: kinhthanhvn.org