Rõ ràng chủ đề của cả ba dụ ngôn Mát-thêu kể trong chương 25 đều liên quan tới thời cánh chung khi mỗi người chúng ta phải giáp mặt với ‘Con Người đến trong vinh quang của Người’ (Mt 25,31). Thế nhưng nếu Con Người đó vẫn luôn mãi là Thiên Chúa của tình yêu và cứu độ, kể cả (hay đúng hơn nhất là) khi Người đến trong vinh quang, và nếu thời cánh chung đó là cao điểm của Tin Mừng của vui mừng và hy vọng chứ không phải là cao điểm của sợ hãi và lo âu, tôi phải khám phá ra ý nghĩa đích thực của ba dụ ngôn, nhất là dụ ngôn những yến bạc, mà Hội Thánh muốn gởi tới tôi như một sứ điệp trong các tuần lễ cuối cùng của phụng vụ năm A này.
Câu chuyện những yến bạc gợi tôi nhớ tới đoạn Tin Mừng Lu-ca Người phụ nữ tội lỗi đã được tha thứ và đã yêu mến nhiều (xem Lc 7, 36-50), trong đó đức Giê-su khảng định với người Pha-ri-sêu có tên là Si-mon mời ngài dùng bữa tại nhà ông: “Vì thế tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều… Còn ai được tha ít thì yêu mến ít”.
Trước hết năm, hai, hay một yến bạc (NB: dụ ngôn này trong Lu-ca có chi tiết hơi khác, là mỗi đầy tớ nhận được một nén bạc như nhau, nhưng sau đó đã làm sinh lời khác nhau, xem Lc 19, 11-27) mà các đầy tớ nhận được đều là của cải ông chủ giao phó. Vậy thì, của cải đích thực Thiên Chúa tình yêu và cứu độ giao phó cho tôi là gì? Đấng Tạo Hóa đương nhiên là giao cho tôi sự sống, trí tuệ, năng khiếu… và gì gì khác nữa; thế nhưng Thiên Chúa cứu độ trao cho tôi của cải lớn nhất và quí nhất mà Người có là tình yêu tha thứ. Đức Giê-su Ki-tô dùng cả cuộc đời ngài để minh chứng điều này. Mỗi người chúng ta tự biết mình nhận được số yến bạc tha thứ của Ông Chủ: kẻ năm, người hai, kẻ khác thấy mình nhận được chỉ có một. Nếu hai người trước đã làm sinh lợi các (= nhiều) yến bạc nhận được “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm (hai) yến, tôi đã gây lời được năm (hai) yến khác đây”, thì người thứ ba lại đào lỗ chôn giấu vì cho rằng mình nhận được có một (= quá ít). Đúng là “người được tha nhiều thì yêu nhiều hơn… còn ai được tha ít thì yêu mến ít” (Lc 7, 43.47). Thái độ và lời hỗn xược của người thứ ba này càng làm ta phải suy nghĩ: “Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi… Vì thế tôi đâm sợ…”. Đúng là nếu có người nhận ra mình được Thiên Chúa thương xót cứu độ, người khác lại không; và có thể người tội lỗi hơn lại dễ nhận ra mình được tha nhiều và do đó yêu nhiều, trong khi người đạo đức thánh thiện hơn lại cho rằng mình được tha ít (hoăc ít cần được tha) nên yêu ít hơn. Đức Giê-su đã lặp đi lặp lại ý này nhiều lần tới độ làm cho một số kinh sư và biệt phái phải bực tức.
Như thế, khi ra trước Con Người của tình yêu và cứu độ ngày sau hết, điều quan trọng hơn cả sẽ là: tôi đã nhận ra được Ông Chủ tha thứ bao nhiêu, để rồi yêu lại bấy nhiêu. Lúc đó lời phán quyết của Chủ sẽ là “Khá lắm, hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiêu cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh”. Sẽ không có khác biệt giữa năm hay hai, quan trọng là đã nhận ra mình được tha nhiều. Ngày đó điều bất hạnh lớn nhất chính là nhận thức mình được tha quá ít; và vì nhận thức hẹp hòi này mà vẫn coi Con Người quang lâm chỉ là một ông chủ đòi hỏi và keo kiệt, một thẩm phán công thẳng và xét nét. Thái độ đầy tớ khi ra trước mặt Ông Chủ sẽ chỉ vỏn vẹn là mình đã giữ luật sòng phẳng, đã không phạm tội… “đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy!”. Và phán quyết của Con Người quang lâm sẽ là: “hãy lấy yến bạc khỏi tay nó… quang ra chỗ tối tăm bên ngoài”, đời đời sẽ “khóc lóc nghiến răng” sẽ không còn tha thứ và cứu độ.
Ki-tô hữu sẽ là những người ngày cánh chung “đứng thẳng và ngẩng đầu lên!” (Lc 21,28) không phải vì đã thánh thiện và đạo đức hơn người, hoặc vì chẳng có chi phải sợ Ông Chủ vì đâu có lỗi phạm gì quá đáng, nhưng chỉ vì “anh em sắp được cứu chuộc”. Họ vui mừng và hy vọng vì đã từng nghiệm thấy trong suốt đời mình lòng thương xót cứu độ của Thiên Chúa. Tội lỗi đã từng phạm không hề làm họ sợ hãi, vì hơn lúc nào hết, họ biết mình đã được tha nhiều nên yêu nhiều, và họ đang tới gặp Đấng thứ tha.
Lạy Chúa của lòng nhân ái, con đã từng hãi sợ cái chết và sự phán xét chỉ vì cứ tối mặt nhìn vào tội đã phạm. Xin cho con biết luôn ‘đứng thẳng và ngẩng đấu lên’ với niềm xác tín: con đã từng được tha thứ rất nhiều trong đời, và vì thế không có gì phải sợ hãi giáp mặt Đấng con sẽ yêu nhiều hơn. Trong những ngày cuối năm phung vụ này, xin cho niềm hy vọng và mừng vui tràn ngập lòng các tín hữu Chúa. Amen
Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SDB