Dưới đây là bản dịch bài giáo lý thứ mười ba về Cầu Nguyện của ĐTC Bênêđictô XVI ban hành tại Đại Sảnh Đường Phaolô VI, Thứ Tư ngày 14 tháng 9, năm 2011. ĐTC tiếp tục loạt bài giáo lý về Cầu Nguyện. Lần này ngài suy niệm về Thánh Vịnh 22.
* * *
“Ôi Thiên Chúa của con! Ôi Thiên Chúa của con!
Sao Ngài lại nỡ bỏ rơi con?” TV 22 (21)
Anh chị em thân mến,
Trong bài giáo lý hôm nay tôi muốn nói về một Thánh Vịnh có một liên hệ mật thiết với Kitô học. Thánh Vịnh này luôn xuất hiện trong những tường thuật về Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, với cả hai bình diện chịu sỉ nhục và vinh quang, sự chết và sự sống. Đó là Thánh Vịnh 22 theo truyền thống Do Thái hay Thánh Vịnh 21 theo truyền thống La-Hy, một lời cầu nguyện chân thành và cảm động, có sự phong phú về thần học và chiều sâu về nhân bảni, khiến nó trở thành một trong những Thánh Vịnh được ưa thích và nghiên cứu nhiều nhất trong các Thánh Vịnh. Đó là một bài thơ dài, và chúng ta sẽ đặc biệt suy niệm về phần thứ nhất là phần đặt trọng tâm vào lời than van, để hiểu một số khía cạnh quan trọng của kinh nguyện khẩn cầu cùng Thiên Chúa
Thánh Vịnh này trình bày hình ảnh của một người vô tội bị lùng bắt và bao vây bởi những kẻ thù muốn cho ông chết, và ông cầu cùng Thiên Chúa bằng một lời than thở đớn đau, trong niềm xác tín của đức tin, mở ra một cách bí nhiệm để chúc tụng. Trong lời cầu nguyện của ông, thực tại kinh hoàng của hiện tại và đầy an ủi trong quá khứ thay phiên nhau trong một ý thức đau đớn về tình trạng tuyệt vọng của mình, nhưng không muốn làm cho mình mất hy vọng. Lới kêu than lúc đầu của ông là một lời khẩn cầu cùng một Thiên Chúa dường như xa cách, không đáp lời ông và có vẻ đã bỏ rơi ông.
“Ôi Thiên Chúa của con! Ôi Thiên Chúa của con! Sao Ngài lại nỡ bỏ rơi con?
Dù con thảm thiết kêu gào, nhưng ơn cứu độ nơi nào xa xôi!
Lạy Chúa, ngày con kêu Chúa, Chúa không đáp lời;
Đêm con van Ngài, mà cũng chẳng được yên thân.” (câu 2-3).
Thiên Chúa vẫn im lặng, và sự im lặng này làm tan nát tâm hồn của người cầu nguyện, người không ngừng kêu van, nhưng không tìm được câu trả lời. Ngày và đêm đến và đi, trong một cuộc tìm kiếm một lời mà không biết mệt, một sự trợ giúp mà không tìm thấy, Thiên Chúa dường như đang ở quá xa, quá lãng quên và quá vắng mặt. Lời cầu xin Ngài lắng nghe và đáp lời, tìm một tiếp xúc, kiếm một mối liên hệ có thể đem lại an ủi và ơn cứu độ. Nhưng nếu Thiên Chúa không đáp lại, thì lời kêu cứu bị tan biến trong hư vô, và sự cô đơn trở thành nên không thể chịu đựng được nữa. Tuy nhiên người cầu nguyện trong Thánh Vịnh này, đã ba lần kêu cầu, gọi Ngài là Thiên Chúa “của Con”, trong một hành vi chứng tỏ lòng tín thác và đức tin phi thường. Bất chấp mọi vẻ bề ngoài, tác giả Thánh Vịnh không thể tin rằng mối liên hệ với Chúa đã hoàn toàn bị cắt đứt, và khi thắc mắc về việc bị coi là ruồng bỏ mà ông không thể hiểu nổi, ông khẳng định rằng Thiên Chúa “của ông” không thể bỏ rơi ông.
Như anh nhiều người đã biết, lời kêu van ban đầu của Thánh Vịnh, “Ôi Thiên Chúa của con! Ôi Thiên Chúa của con! Sao Ngài lại nỡ bỏ rơi con?”, được tường thuật trong các sách Tin Mừng Thánh Matthêu và Thánh Marcô là tiếng kêu mà Chúa Giêsu đã thốt ra khi đang chịu chết trên Thập Giá (x. Matthew 27:46, Mc 15:34). Nó diễn tả tình trạng cô độc của Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa, Người đang đối diện với thảm trạng bị chết, một thực tại hoàn toàn trái ngược với Chúa sự sống. Bị hầu hết những người thân yêu của Mình bỏ rơi, bị các môn đệ phản bội và chối từ, bị vây quanh bởi những kẻ nhục mạ Người, Chúa Giêsu đang bị đè nghiến bởi sức nặng của một sứ mệnh phải trải qua sỉ nhục và hủy diệt. Vì lý do đó mà Người than khóc cùng Chúa Cha, và nỗi thống khổ của Người được diễn tả qua những lời đớn đau của bài Thánh Vịnh. Nhưng tiếng kêu của Người không phải là một tiếng kêu tuyệt vọng, cũng không như tiếng kêu của tác giả Thánh Vịnh, là người kêu cầu trong khi hành trình trên đường đau khổ nhưng cuối cùng dẫn đến một viễn cảnh ngợi khen, tin cậy vào chiến thắng của Thiên Chúa. Vì theo phong tục Do Thái, việc tríc dẫn lời mở đầu của một Thánh Vịnh là có ngụ ý đề cập đến toàn thể bài thơ, như lời cầu nguyện hấp hối của Chúa Giêsu, trong khi vẫn giữ nguyên tình trạng đau khổ không thốt nên lời của Người, mở ra sự chắc chắn của vinh quang. “Chẳng lẽ Ðức Kitô lại không cần phải chịu những đau khổ đó trước khi vào trong vinh quang của Người sao?” Chúa Phục Sinh nói cho các môn đệ trên đường Emmaus (Lc 24:26). Trong cuộc khổ nạn của Người, nhờ vâng phục Chúa Cha, Chúa Giêsu vượt qua tình trạng bị bỏ rơi và cái chết đã đạt được sự sống và ban nó tất cả các tín hữu.
Trong một trái ngược đau thương, lời kêu cầu đầu tiên này trong Thánh Vịnh 22 của chúng ta lại được nối tiếp bằng việc nhớ lại quá khứ:
“Nơi Ngài cha ông chúng con đặt trọn niền tin cậy.
Họ tín thác vào Ngài và Ngài đà cứu họ.
Họ van xin cứu giúp, và Ngài đã giải nguy.
Nơi Ngài họ một lòng tín thác, nên họ không hổ thẹn bẽ bàng.” (các câu 5-6).
Thiên Chúa mà giờ đây có vẻ rất xa tác giả Thánh Vịnh, tuy vậy lại là Chúa hay thương xót mà dân Israel đã từng kinh nghiệm trong lịch sử của họ. Dân mà người cầu nguyện thuộc về đã là đối tượng của tình yêu Thiên Chúa và có thể làm chứng cho đức trung tín của Ngài. Bắt đầu với các tổ phụ, rồi sau đó ở Ai Cập và cuộc hành trình dài nơi hoang địa, cuộc định cư nơi Đất Hứa khi tiếp xúc với những dân hung hãn và thù nghịch, cho đến thời lưu đầy tăm tối, toàn bộ lịch sử trong Thánh Kinh là một lịch sử kêu xin giúp đỡ của dân chúng và phản ứng cứu độ của Thiên Chúa. Tác giả Thánh Vịnh nói về đức tin bất di dịch của cha ông mình, những người đã “tín thác” – từ này được lặp đi lặp lại ba lần – và không bao giờ phải thất vọng. Tuy nhiên, giờ đây có vẻ chuỗi kinh nguyện này cùng những đáp trả của Thiên Chúa bị gián đoạn, và tình trạng của tác giả Thánh Vịnh dường như trái ngược với toàn bộ lịch sử cứu đô, làm cho thực tại hiện nay thậm chí còn đau đớn hơn nhiều.
Nhưng Thiên Chúa không thể mâu thuẫn với chính Mình, và chúng ta thấy sau đó lời cầu nguyện lại một lần nữa mô tả hoàn cảnh khó khăn của người cầu nguyện, để làm cho Chúa động lòng thương mà can thiệp như Ngài đã làm trong quá khứ. Tác giả Thánh Vịnh coi mình như “loài sâu bọ, chứ đâu phải loài người, bị mọi người miệt thị, bị dân chúng khinh chê” (câu 7), bị nhạo báng, cười chê (x câu 8) và khi đang bị thương tích chính vì đức tin của mình, chúng nói rằng: “Hắn cậy vào Chúa; xem Ngài có cứu hắn hay không; nếu Ngài yêu thương hắn, thì hãy để Ngài cứu hắn!” (câu 9). Bị nhạo cười châm biếm và khinh bỉ, người bị đàn áp có vẻ mất hết căn tính con người, như Người Tôi Tớ Đau Khổ được mô tả trong Sách Ngôn Sứ Isaia (Isaiah 52:14; 53:2 b-3). Cũng giống như người công chính bị áp bức của Sách Khôn Ngoan (2:12-20), như Chúa Giêsu trên đồi Canvê (x. Matthew 27:39-43), tác giả Thánh Vịnh có vẻ đặt lại vấn đề về mối liên hệ của mình với Chúa, về những nhạo báng tàn bạo và nhấn mạnh đến những gì làm cho ông đang phải chịu đựng: sự im lặng của Thiên Chúa, việc Ngài rõ ràng là vắng mặt.
Tuy nhiên, Thiên Chúa đã hiện diện trong cuộc sống của người cầu nguyện bằng một sự gần gũi và ân cần không thể chối cãi được. Tác giả Thánh Vịnh nhắc nhở Chúa: “Phải, Ngài là Đấng đã lấy con ra từ lòng mẹ, và giữ con an toàn trong lòng mẹ. Từ bụng mẹ, con đã được dâng cho Chúa” (Các câu 10-11a). Chúa là Thiên Chúa sự sống, Đấng sinh ra, đón chào em bé và chăm sóc em với tình âu yếm của một người cha. Và nếu trước đó ông đã nhớ lại của đức trung tín của Thiên Chúa trong lịch sử dân Ngài, thì giờ đây người cầu nguyện nhắc lại lịch sử cá nhân của ông và mối liên hệ với Chúa, trở lại thời điểm đặc biệt quan trọng lúc đầu trong cuộc đời ông. Và ở đó, bất chấp tình trạng lẻ loi hiện tại, tác giả Thánh Vịnh nhận ra một sự gần gũi và một tình yêu triệt để của Thiên Chúa mà ông giờ đây có thể thốt lên, trong một lời tuyên xưng đức tin đầy đủ và tạo ra hy vọng, “từ lọt lòng, Ngài đã là Thiên Chúa của con” (v. 11b).
Lời than van giờ đây trở nên lời cầu xin khẩn cấp: “Xin Ngài đừng đứng xa con, vì gian nan cận kề mà chẳng ai cứu giúp.” (câu 12). Sự gần gũi duy nhất mà tác giả Thánh Vịnh cảm thấy và nó làm ông sợ hãi là sự gần gũi của quân thù. Như thế cần phải có Thiên Chúa đến gần và giải cứu, vì quân thù đang bao vây người cầu nguyện, chúng bao quanh ông như những con bò đực hung hăng, như những con sư tử gầm thét và đang dương nanh vuốt ra để cắn xé (xem các câu 13-14). Nỗi âu lo ảnh hưởng đến nhận thức về mối nguy hiểm và phóng đại nó. Các đối thủ dường như bách thắng, đã trở thành những con thú hung tợn và nguy hiểm, trong khi tác giả Thánh Vịnh như một con sâu nhỏ, bất lực, không có khả năng tự vệ.
Tuy nhiên, những hình ảnh này cũng được sử dụng trong Thánh Vịnh để nói rằng khi con người trở nên tàn nhẫn tấn công anh em mình, thì có một cái gì đó giống như thú làm chủ người ấy, khiến cho người ấy hầu như mất hết những gì có vẻ giống con người; bạo lực luôn luôn có với nó một thú tính nào đó và chỉ có sự can thiệp cứu độ của Thiên Chúa mới có thể phục hồi được nhân tính của người ấy. Giờ đây, đối với tác giả Thánh Vịnh, khi bị tấn công dữ dội như thế, ông có vẻ không còn lối thoát, và thần chết bắt đầu làm chủ ông: “Con giống như nước đổ, tất cả xương của con đều phải rụng rời […] khô như ngói, còn lưỡi con dính chặt vô hàm; […] chúng chia nhau quần áo của con, còn áo dài thì chúng rút thăm” (các câu 15:16:19). Với hình ảnh bi thảm, mà chúng ta thấy trong tường thuật về Cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô, mô tả sự tan rã của thân thể của người bị kết án, cơn khát không thể chịu đựng nổi hành hạ người đang hấp hối và điều này được lặp lại trong tiếng kêu của Chúa Giêsu, “Ta khát” (Ga 19:28), cuối cùng đạt đến cao điểm bằng hành động của những tên lý hình, như những quân lính dưới chân thập giá, phân chia quần áo của nạn nhân, là người được chúng coi là đã chết (x. Matthew 27:35, Mc 15:24, Lc 23:34, Ga 19:23-24).
Như thế ở đây, chúng ta nghe thấy tiếng kêu cầu giúp đỡ: “Phần Ngài, Lạy Chúa, xin đừng đứng xa con; ôi Đấng là sức mạnh con, xin mau mau đến giúp con […] Xin cứu con” (câu 20.22a). Đó là một tiếng kêu thấu trời, bởi vì tiếng kêu này công bố một đức tin, một xác tín vượt trên mọi nghi ngờ, mọi tăm tối và hoang tàn của tất cả. Lời than thở bỏ đi nhường chỗ cho lời ca ngợi trong việc đón nhận ơn cứu độ: “Ngài đã đáp lời con. Con sẽ rao truyền danh Ngài với anh em, và chúc tụng Ngài nơi công hội” (các câu 22c-23). Như vậy, Thánh Vịnh thốt lên những lời tạ ơn, thành bài thánh thi cuối cùng tuyệt vời, trong đó bao gồm tất cả mọi người, các tín hữu của Chúa, cộng đồng phụng vụ, các thế hệ tương lai (xem các câu 24-32). Chúa đến để giúp đỡ ông. Người đã cứu kẻ nghèo và dung nhan Người cho chúng ta thấy lòng thương xót của Người. Cái chết và sự sống đã gặp nhau trong một mầu nhiệm không thể phân ly, và sự sống đã chiến thắng. Thiên Chúa của ơn cứu độ đã tỏ ra Nình là Chúa mà không ai có thể chối cãi được. Ngài là Đấng mà mọi người cho đến tận cùng trái đất đều phải đón mừng, và trước mặt Ngài tất cả các gia đình của các dân tộc sẽ phải phủ phục tôn thờ. Đó là chiến thắng của đức tin, là điều có thể biến sự chết thành một món quà sự sống và vực thẳm đau thương thành nguồn hy vọng.
Thưa anh chị em, Thánh Vịnh này đã dẫn chúng ta đến đồi Golgotha, dưới chân Thập Giá của Chúa Giêsu, để sống Cuộc Khổ Nạn của Người và chia sẻ niềm vui có hiệu quả của sự sống lại. Cho nên chúng ta hãy để cho mình bị ánh sáng của Mầu Nhiệm Vượt Qua tràn ngập, ngay cả trong những thời điểm Thiên Chúa dường như vắng mặt, ngay cả trong sự im lặng của Thiên Chúa, và như các môn đệ trên đường Emmaus, chúng ta hãy học cách phân biệt thực tại thật là thực tại vượt trên mọi vẻ bề ngoài, bằng cách nhận ra con đường tiến lên chính trong tủi nhục và việc biểu lộ trọn vẹn của sự sống trong cái chết, trong Thập Giá. Vì thế, đặt tất cả niềm tín thác và hy vọng của mình vào Thiên Chúa Cha, và trong mọi hoàn cảnh khốn cùng chúng ta cũng có thể cầu xin Ngài trong đức tin, và lời kêu xin giúp đỡ của chúng ta sẽ được biến đổi thành một bài ca chúc tụng. Xin cám ơn anh chị em.
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ