Thứ Tư Tuần 12 TN1, Năm Lẻ.
Bài đọc: Genesis 15:1-12,17-18; Matthew 7:15-20.
Theo thuyết Chính Danh của Khổng Tử: làm vua phải biết lo cho dân được ấm no và bình an, làm dân phải biết tuân giữ các mệnh lệnh và chu toàn bổn phận của mình; làm cha phải biết thương yêu và giáo dục con cái nên người, làm con phải biết vâng lời và báo hiếu cha mẹ. Nếu mọi người trong nước và trong gia đình đều biết sống đúng như danh hiệu của mình, dân chúng sẽ an cư lạc nghiệp, gia đình sẽ yên vui hạnh phúc, và đất nước sẽ bình an.
Các bài đọc hôm nay muốn đưa ra những tấm gương để mọi người nhìn vào đó và nhận ra mình đã sống đúng với danh hiệu của mình chưa. Trong bài đọc I, Đức Chúa hứa sẽ ban cho Abram hai điều: một dòng dõi đông đảo như sao trên trời và một vùng đất Canaan trù phú. Ngài đã làm y như vậy. Phần Abram, ông đã tin những gì Đức Chúa hứa, cho dẫu ông chưa được thấy dấu hiệu của những gì Đức Chúa hứa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đề phòng cho dân chúng đừng tin các ngôn sứ giả. Họ là những chó sói đội lốt người chăn chiên để rình chờ cắn xé chiên. Để giúp dân nhận ra những ngôn sứ giả, Chúa Giêsu khuyên dân chúng đừng đánh giá bằng bộ áo họ mặc; nhưng nhìn vào cuộc sống của họ, vì cây tốt không thể sinh quả xấu.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ông tin Đức Chúa, và vì thế, Đức Chúa kể ông là người công chính.
1.1/ Đức Chúa hứa ban cho Abram một dòng dõi. Truyền thống Do-thái tin con cháu đầy đàn là một trong những phần thưởng Đức Chúa ban cho những ai biết kính sợ Ngài. Abram đã cao niên mà vẫn chưa có lấy một người con; nhưng trong một thị kiến, Đức Chúa hứa “phần thưởng của ngươi sẽ rất lớn.” Ông Abram thưa lại: “Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, Chúa sẽ ban cho con cái gì? Con ra đi mà không con cái, và người thừa tự gia đình con là Eliezer, một người Damas… Chúa không ban cho con một dòng dõi, và một gia nhân của con sẽ thừa kế con.” Nhưng Đức Chúa phán với ông rằng: “Kẻ đó sẽ không thừa kế ngươi, nhưng một kẻ do chính ngươi sinh ra mới thừa kế ngươi.” Rồi Người đưa ông ra ngoài và phán: “Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không.” Người lại phán: “Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó!”
Tuy chưa có lấy một người con trong khi tuổi đã già, Abram tin những gì Đức Chúa nói, và vì thế, ông được Đức Chúa kể là người công chính vì ông đã tin những gì Ngài phán. Chúng ta biết sau đó Đức Chúa đã ban cho Abram một người con thừa kế là Isaac, Isaac có hai con là Esau và Jacob, Jacob có tới 12 người con; và từ đó, dân tộc Israel được thành hình. Khi Đức Chúa hứa, Ngài không nói khi nào những điều ấy được thực hiện, bổn phận của Abram là phải tin những gì Ngài hứa dù chưa thấy.
1.2/ Đức Chúa hứa ban cho Abram Đất Hứa. Người lại phán với ông: “Ta là Đức Chúa, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi thành Urs của người Chaldeans, để ban cho ngươi đất này làm sở hữu.” Abram thưa: “Lạy Đức Chúa, làm sao mà biết là con sẽ được đất này làm sở hữu?” Người phán với ông: “Đi kiếm cho Ta một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một chim gáy và một bồ câu non.” Ông kiếm cho Người tất cả những con vật ấy, xẻ đôi ra, và đặt nửa này đối diện với nửa kia; còn chim thì ông không xẻ. Truyền thống Do-thái khi làm giao ước với ai thường có lễ vật kèm theo để bảo điểm lời hứa. Ý nghĩa của các con vật được xẻ đôi có lẽ muốn nói, nếu một bên xé bỏ giao ước thì cũng bị phân thân xác làm hai như thế.
Điều Đức Chúa cho Abram biết trước là sự kiện dòng dõi ông sẽ phải sống nô lệ cho người Ai-cập trong vòng 400 năm: “Ngươi phải biết rằng: dòng dõi ngươi sẽ trú ngụ trong một đất không phải của chúng. Chúng sẽ làm tôi người ta và người ta sẽ hành hạ chúng bốn trăm năm.
Nhưng Ta sẽ xét xử dân tộc chúng phải làm tôi, và sau đó chúng sẽ ra đi với nhiều tài sản. Còn ngươi sẽ về với cha ông ngươi bình an, và sẽ được chôn cất sau khi hưởng tuổi già hạnh phúc.” Sự kiện Abram thấy “một lò nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy rực đi qua giữa các con vật đã bị xẻ đôi” chứng minh Đức Chúa đã chứng nhận giao ước, và Ngài sẽ thực thi những gì Ngài đã hứa. Điều này cũng đã xảy ra khi ông Moses và Aaron thừa lệnh Đức Chúa đem dân tộc Israel ra khỏi Ai-cập, lang thang trong sa mạc 40 năm, và sau đó đinh cư trong vùng đất Đức Chúa đã hứa.
2/ Phúc Âm: Hãy coi chừng các ngôn sứ giả
2.1/ Ngôn sứ thật và ngôn sứ giả: Đời nào cũng có các ngôn sứ giả. Lịch sử Do-thái không thiếu những hạng người này như được ghi chép nhiều lần trong Sách ngôn sứ Jeremiah và Ezekiel. Thánh Phaolô cũng đề phòng môn đệ Timothy về hạng người này và gọi họ là “chó sói” như Chúa Giêsu gọi hôm nay: “Họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi.” Ngày nay, cũng đầy dẫy những linh mục giả lợi dụng chiếc áo để gieo những lạc thuyết sai lầm và tìm kiếm lợi nhuận. Làm sao để nhận ra các ngôn sứ giả? Trước tiên chúng ta phải biết một ngôn sứ thật.
(1) Ngôn sứ thật: Theo định nghĩa đúng, người ngôn sứ là người nói những gì Thiên Chúa muốn nói như một sấm ngôn hay một sứ điệp, chứ không nhải là người nói tiên tri những gì sẽ xảy ra, dầu đôi khi có thể như vậy. Ngôn sứ là cái miệng của Thiên Chúa dùng để nói những gì Ngài muốn nói với con người. Ngày nay, ngôn sứ thật phải biết Lời Chúa và giảng Kinh Thánh, chứ không phải giảng văn chương và nói chuyện chính trị. Ngôn sứ thật phải dạy dân biết Luật của Thiên Chúa và can đảm sửa sai khi cần thiết.
(2) Ngôn sứ giả: Họ không nói lời của Thiên Chúa, thay vào đó họ nói những gì họ muốn hay lời của người khác rồi đổ cho Thiên Chúa. Họ không dạy cho dân biết Kinh Thánh và Lề Luật của Thiên Chúa, nhiều khi cũng chẳng chịu học biết để dạy. Họ không dám sửa dạy dân chúng vì sợ mất lòng và bị ghét. Họ thích nói những gì dân chúng muốn như: khen ngợi nhiều, đừng bắt làm nhiều, nhất là đừng khui tội của dân chúng ra để lương tâm họ bị cắn rứt.
2.2/ Phương cách để nhận ra các ngôn sứ giả: Để giúp các tín hữu nhận ra những ngôn sứ giả, Chúa Giêsu dạy: Nhìn quả biết cây; cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai. Các tín hữu có thể nhìn cách sống của một người để biết ngôn sứ thật hay giả. Hai điều chúng ta có thể rút ra từ những lời dạy của Chúa Giêsu:
(1) Đừng nhìn bên ngoài mà đánh giá: Đừng đánh giá bởi bộ áo bên ngoài vì “Chiếc áo không làm nên thầy tu.” Chúa Giêsu mô tả: “Họ xúng xính trong bộ áo thụng! Họ đeo những hộp kinh lớn trên trán và các tua áo dài… Họ đọc kinh nhiều và dài để nuốt hết gia tài các bà góa.”
(2) Phải nhìn việc làm để đánh giá vì ý hướng bên trong của họ ta không thấy. Họ không quan tâm gì đến phần hồn của chiên; nhưng để ý đến những gì chiên mang lại cho họ. Họ như chó sói đội lốt chiên luôn rình chờ để cắn xé đoàn chiên. Một số các đặc điểm của các ngôn sứ giả:
+ Tham lợi nhuận vật chất: họ thích tiền và những của biếu xén.
+ Ham danh vọng: Họ lợi dụng chức vụ để xây dựng danh tiếng cho mình. Họ chỉ nhận lời làm những gì mang lại danh thơm tiếng tốt và chê bỏ những gì tầm thường, hèn kém.
+ Thích quyền hành: Họ mong những chức vụ cao trọng trong Giáo Hội để được ăn trên ngồi chốc, hay chán nản bi quan khi cấp cao không nhận ra tài năng quan trọng của họ.
+ Thỏa mãn xác thịt: Họ lạm dụng niềm tin của phụ nữ và con trẻ để thỏa mãn xác thịt. Đây là thứ tội mà Chúa Giêsu kinh tởm và buộc tội: “Thà buộc cối đá và quăng xuống biển còn hơn!”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta hãy biết sống đúng với danh hiệu của mình. Nếu là ngôn sứ, hãy dạy dân biết Lời Chúa và chỉ đường cho dân đến với Ngài. Nếu là Kitô hữu, hãy vâng lời và làm những gì Thiên Chúa truyền dạy. Chúng ta đừng đánh giá người khác theo cái vỏ bên ngoài; nhưng hãy nhìn vào việc làm của họ.
LM. Anthony Đinh Minh Tiên, OP