Kiên nhẫn chờ đợi sự công bằng và nhân từ của Thiên Chúa.

Chủ Nhật 16 Thường Niên, Năm A. 

Bài đọc: Wisdom 12:13,16-19; Romans 8:26-27; Matthew 13:24-43 (hay 24-30). 

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:  

Khi chứng kiến những cảnh thê lương, hậu quả của những trận lũ lụt hay động đất, con người hay thắc mắc: Chúa nhân từ ở đâu sao không can thiệp mà lại để những điều đau thương xảy ra gây đau khổ cho dân lành? Nếu không tìm được câu trả lời, họ tự kết luận: hoặc Thiên Chúa không có uy quyền để ngăn cản, hoặc có uy quyền nhưng không nhân từ để ngăn cản, và họ gạt Thiên Chúa ra ngoài cuộc sống! Khi phải đương đầu với những bất công xảy ra cho cá nhân, cho gia đình, hay xã hội, con người cũng thắc mắc: Chúa công bằng ở đâu mà lại để cho kẻ dữ hoành hành làm thiệt hại cho dân lành? Như vậy trời cao không có mắt, và họ cũng gạt Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống! Nói tóm, con người thách đố Thiên Chúa trong sự quan phòng của Ngài cho thế giới theo như cách suy tư và hành động của con người! Con người muốn điều khiển Thiên Chúa, chứ không muốn để Thiên Chúa điều khiển mình.

Các bài đọc hôm nay muốn làm nổi bật sự khôn ngoan của Thiên Chúa trong việc quan phòng thế giới; đồng thời cũng nói lên những giới hạn về sự hiểu biết của con người. Trong bài đọc I, tác giả Sách Khôn Ngoan chứng minh Thiên Chúa luôn hành động khôn ngoan và đối xử nhân từ cũng như công bằng với hết mọi người. Trong bài đọc II, thánh Phaolô mặc khải cho chúng ta một chân lý: vì con người không biết cách cầu nguyện thế nào cho đúng, nên Thiên Chúa ban cho con người chính Thần Khí của Ngài, để giúp con người dâng lên những lời cầu nguyện thích hợp, vừa đẹp lòng Thiên Chúa vừa sinh ích lợi cho con người. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu trả lời một vấn nạn thường xuyên bị chất vấn bởi con người: Tại sao Thiên Chúa không tiêu diệt kẻ gian ác, mà cứ để chúng sống phây phây, ức hại dân lành?

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Thiên Chúa toàn năng, nhân từ và công bằng.

1.1/ Chính do sức mạnh của Chúa mà Chúa hành động công minh: Đọc lại các Sách Khôn Ngoan của Cựu Ước, chúng ta sẽ thấy rõ những giới hạn về hiểu biết của con người. Chẳng hạn trong Sách Ông Job, ông không hiểu tại sao Thiên Chúa để người lành phải đau khổ. Các bạn của ông vịn vào truyền thống cho là vì tội lỗi của tổ tiên, của chính ông hay của con cái. Ông xét thấy điều đó không đúng và băn khoăn, khắc khoải, muốn chính Thiên Chúa cho ông câu trả lời. Khi Thiên Chúa hiện ra và chất vấn, ông đã phải đưa tay bịt miệng mà thưa: “điều đã nói ra, con xin rút lại, trên tro bụi, con sấp mình thống hối ăn năn” (Job 42:6). Thực ra, ông bị đau khổ chỉ vì Thiên Chúa muốn ông chứng minh cho Satan biết niềm tin yêu ông dành cho Ngài không lệ thuộc vào những sự tốt lành Ngài đã ban cho và chúc lành cho ông (Job 1:6-2:7).

Thiên Chúa có khôn ngoan và uy quyền để dựng nên và quan phòng thế giới; con người quá yếu ớt và hạn hẹp để hiểu biết những công việc của Thiên Chúa. Bổn phận của con người là phải khiêm nhường nhận ra giới hạn của mình, và đừng bao giờ trách Thiên Chúa bất công. Tác giả Sách Khôn Ngoan cũng khuyên con người: “Chính do sức mạnh của Chúa mà Chúa hành động công minh, và vì Chúa làm bá chủ vạn vật, nên Chúa nương tay với muôn loài. Khi không có ai tin rằng Chúa nắm trọn quyền năng, thì Ngài tỏ sức mạnh; còn ai đã biết mà vẫn to gan, thì Ngài trị tội.”

1.2/ Thiên Chúa vừa nhân từ vừa công bằng: Nhân từ và công bằng là 2 đặc tính của Thiên Chúa. Các thánh ví hai đức tính này như hai cánh của con chim hoặc hai chân của một người. Chim không thể bay với một cánh và con người không thể đi lại với một chân. Khi một người quá chú trọng đến sự công bằng của Thiên Chúa, anh có thể sẽ rơi vào sự thất vọng, vì anh không tin Ngài có thể tha thứ những tội lỗi to lớn của anh. Khi một người quá chú trọng đến khía cạnh nhân từ của Thiên Chúa, anh dễ bị rơi vào tình trạng “lạc quan miền Thượng.” Ngài sẽ tha thứ hết tất cả mà chẳng cần phải ăn năn!

Làm sao Thiên Chúa dung hòa được hai nhân đức này? Tác giả Sách Khôn Ngoan trả lời: “Chúa xử khoan hồng vì Ngài làm chủ được sức mạnh. Ngài lấy lượng từ bi cao cả mà cai quản chúng con, nhưng có thể sử dụng quyền năng bất cứ khi nào Ngài muốn… Ngài đã cho con cái niềm hy vọng tràn trề là người có tội được Ngài ban ơn sám hối.”

2/ Bài đọc II: Thần Khí cầu thay nguyện giúp cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa.

2.1/ Con người chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải: Nếu thật tâm nhận xét, tất cả chúng ta đều không biết cách cầu nguyện thế nào cho phải. Trong Phúc Âm, các môn đệ nhận ra điều này, nên đến xin Chúa Giêsu dạy cho các ông biết cách cầu nguyện, và Ngài đã dạy cho các ông một Kinh nguyện vô giá; đó là Kinh Lạy Cha. Có ít nhất là 3 lý do chứng minh con người không biết cách cầu nguyện.

(1) Con người không biết những gì sẽ xảy đến trong tương lai: Con người chỉ biết những gì xảy ra trong giây phút hiện tại; vì thế, một điều có thể tốt trong giây phút hiện tại, nhưng sẽ không tốt cho con người trong tương lai. Ví dụ, xin cho giàu có thể đưa con người đến chỗ bị thiệt hại mạng sống hay mất hạnh phúc.

(2) Con người không biết điều gì tốt cho mình: Có những điều con người xin tưởng là tốt, nhưng mang lại nhiều cay đắng cho con người. Ví dụ, xin cho có quyền cao, chức trọng; nhưng con người không biết những hậu quả cay đắng mà con người không thể chịu được. Hay con cái xin cha mẹ cho được đi chơi đêm mà không biết hậu quả xấu sẽ xảy ra từ việc đi chơi đêm này.

(3) Con người không biết lời cầu xin của mình có hại cho người khác: Thiên Chúa có bổn phận bảo vệ mọi người, vì tất cả đều là con cái Ngài dựng nên dù họ có biết hay không. Ví dụ, xin Thiên Chúa trừng trị kẻ gian ác thích đáng và ngay lập tức. Ngài nói rõ ý định của Ngài: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống” (Eze ).

2.2/ Chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp cho chúng ta: Vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, nên Thiên Chúa ban cho chúng ta Thần Khí của Ngài. Thánh Phaolô nói rõ: “Hơn nữa, lại có Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả.”

Động từ Hy-lạp dùng ở Romans 8:23stenázô, có nghĩa là rên xiết trong lòng. Danh từ dùng trong trình thuật ở đây là stenámois alalêtois, “những tiếng rên xiết không diễn tả được thành lời.” Danh từ này có nguồn gốc trong Sách Xuất Hành, khi Thiên Chúa nghe thấy những tiếng rên xiết của con cái Israel phải làm nô lệ bên Ai-cập. Họ bị đối xử bất công bởi các người đốc công và bị vất vả khổ cực tư bề; nhưng không biết kêu cầu đến ai, chỉ biết rên xiết trong lòng (Act 7:34; Exodus 3:7-10).

Tại sao Thiên Chúa ban Thần Khí của Ngài cho con người? Thánh Phaolô cắt nghĩa:

“Ai trong loài người biết được những gì nơi con người, nếu không phải là thần trí của con người trong con người? Cũng thế, không ai biết được những gì nơi Thiên Chúa, nếu không phải là Thần Khí của Thiên Chúa. Phần chúng ta, chúng ta đã không lãnh nhận thần trí của thế gian, nhưng là Thần Khí phát xuất từ Thiên Chúa, để nhận biết những ân huệ Thiên Chúa đã ban cho chúng ta” (1 Corinthians 2:11-13). “Và Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can, biết Thần Khí muốn nói gì, vì Thần Khí cầu thay nguyện giúp cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa.”

3/ Phúc Âm: Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt.

3.1/ Dụ ngôn cỏ lùng: Giống như dụ ngôn Người Gieo Giống, Chúa Giêsu cắt nghĩa cho các môn đệ dụ ngôn Cỏ Lùng khi các ông đến hỏi Ngài. Thiên Chúa luôn gieo những điều thiện hảo vào lòng con người. Kẻ thù của Chúa là ma quỉ luôn chờ cơ hội để gieo điều xấu. Con người muốn nhổ cỏ lùng ngay; nhưng Thiên Chúa bảo phải chờ đợi cho đến mùa gặt; lý do: nếu nhổ ngay, người ta sẽ nhổ cả lúa chung với cỏ lùng.

Điều khó cho các nhà chú giải ở đây là cách giải thích của Chúa: Chúa giải thích thửa ruộng là thế giới, lúa tốt là con cái sự sáng, và cỏ lùng là con cái ma quỉ. Điều này đúng trong Ngày Phán Xét khi mọi sự đã rõ ràng; nhưng không giải thích được tại sao phải chờ cho tới mùa gặt; một khi đã biết cỏ lùng muôn đời sẽ là cỏ lùng, không bao giờ có thể trở thành lúa. Giải thích hợp lý hơn: Dụ ngôn không bao giờ chủ trương áp dụng mọi điều; nó chỉ muốn nói lên một điều chính. Điều chính ở đây là thời gian chờ đợi để lúa có thể phân biệt với cỏ lùng; chứ không phải nguy hiểm của cỏ lùng cần phải nhổ ngay. Nếu muốn áp dụng vào cuộc sống: Con người luôn phải đương đầu với điều tốt và điều xấu bao lâu còn sống trên trần gian. Những điều tốt và điều xấu không xác định được người tốt hay người xấu cho đến Ngày Phán Xét. Trong ngày đó, Chúa sẽ phân định cho chúng ta thấy ai là người tốt và ai là người xấu. Trong khi chờ đợi ngày đó đến, chúng ta hãy cố gắng làm tốt tránh xấu. Không ai có thể hãnh diện xác nhận mình là tốt vì không biết điều xấu nó mọc lên lúc nào. Nếu có làm xấu cũng đừng nản lòng, nhưng biết ăn năn trở lại và cậy trông vào lòng nhân từ Chúa. Cũng đừng kết tội ai là cỏ lùng khi nhìn thấy việc xấu của họ.

3.2/ Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi: Kinh nghiệm dạy cho chúng ta, để có kết quả đòi phải có thời gian: hạt giống thành lúa phải đợi 3 tháng, cây có trái đòi 3 năm, con người thành tài đòi ít là 25 năm, và thành nhân đòi 100 năm hay cả cuộc đời! Trong thời gian chờ đợi con người phải kiên nhẫn. Kẻ thù của con người là sự thiếu kiên nhẫn, mặc dù nhiều người đã biết “dục tốc bất đạt hay có công mài sắt có ngày nên kim.” Con người hôm nay dường như không có kiên nhẫn để chờ; làm điều gì họ cũng muốn có kết quả ngay. Chính sự mất kiên nhẫn làm con người đau khổ và thất bại.

Tuy nhiên, kiên nhẫn cũng có giới hạn, mọi việc đều có thời gian của nó; nếu quá thời gian, cây sẽ phải chặt đi để dành cơ hội cho cây khác như dụ ngôn cây vả không sinh trái. Nếu cành nho không sinh trái sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa! Công bằng sẽ tỏ rạng trong Ngày Phán Xét, khi mùa gặt sẽ tới: cỏ lùng sẽ bị cắt và quăng vào lửa, lúa sẽ được gặt và trữ vào kho lẫm. Khi những điều này xảy ra, không ai có quyền than trách Chúa không nhân từ hay không công bằng, vì mọi người đều có cơ hội đồng đều mà Ngài dành cho họ.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Hãy để Thiên Chúa cai trị và điều khiển thế giới theo đường lối khôn ngoan, nhân từ, và công bằng của Thiên Chúa. Chúng ta là ai mà dám chất vấn những việc làm của Thiên Chúa! Tốt hơn, chúng ta hãy học biết giới hạn của con người chúng ta.

– Chúng ta có bao giờ ước tính được chuyện gì sẽ xảy ra cho chúng ta, nếu để một con người bình thường như chúng ta điều khiển thế giới này? Chúng ta có kiên nhẫn để cho tội nhân có cơ hội ăn năn trở lại không? Án tử hình là một ví dụ của con người.

– Có bao giờ chúng ta tự hỏi: Tại sao một Thiên Chúa nhân từ lại để cho con mình chịu khổ đau chết quằn quại trên thập giá? Hay tại sao một Thiên Chúa công bằng không tru diệt hết những con người tội lỗi mà lại hy sinh người con một để cứu chuộc họ?

LM. Anthony Đinh Minh Tiên, OP  

loinhapthe.com

Wisdom 12:13,16-19
View in: NAB
13For there is no other God but thou, who hast care of all, that thou shouldst shew that thou dost not give judgment unjustly.
16For thy power is the beginning of justice: and because thou art Lord of all, thou makest thyself gracious to all.
17For thou shewest thy power, when men will not believe thee to be absolute in power, and thou convincest the boldness of them that know thee not.
18But thou being master of power, judgest with tranquillity; and with great favour disposest of us: for thy power is at hand when thou wilt.
19But thou hast taught thy people by such works, that they must be just and humane, and hast made thy children to be of a good hope: because in judging thou givest place for repentance for sins.
Romans 8:26-27
View in: NAB
26Likewise the Spirit also helpeth our infirmity. For we know not what we should pray for as we ought; but the Spirit himself asketh for us with unspeakable groanings.
27And he that searcheth the hearts, knoweth what the Spirit desireth; because he asketh for the saints according to God.
Matthew 13:24-43
View in: NAB
24Another parable he proposed to them, saying: The kingdom of heaven is likened to a man that sowed good seeds in his field.
25But while men were asleep, his enemy came and oversowed cockle among the wheat and went his way.
26And when the blade was sprung up, and had brought forth fruit, then appeared also the cockle.
27And the servants of the goodman of the house coming said to him: Sir, didst thou not sow good seed in thy field? whence then hath it cockle?
28And he said to them: An enemy hath done this. And the servants said to him: Wilt thou that we go and gather it up?
29And he said: No, lest perhaps gathering up the cockle, you root up the wheat also together with it.
30Suffer both to grow until the harvest, and in the time of the harvest I will say to the reapers: Gather up first the cockle, and bind it into bundles to burn, but the wheat gather ye into my barn.
31Another parable he proposed unto them, saying: The kingdom of heaven is like to a grain of mustard seed, which a man took and sowed in his field.
32Which is the least indeed of all seeds; but when it is grown up, it is greater than all herbs, and becometh a tree, so that the birds of the air come, and dwell in the branches thereof.
33Another parable he spoke to them: The kingdom of heaven is like to leaven, which a woman took and hid in three measures of meal, until the whole was leavened.
34All these things Jesus spoke in parables to the multitudes: and without parables he did not speak to them.
35That it might be fulfilled which was spoken by the prophet, saying: I will open my mouth in parables, I will utter things hidden from the foundation of the world.
36Then having sent away the multitudes, he came into the house, and his disciples came to him, saying: Expound to us the parable of the cockle of the field.
37Who made answer and said to them: He that soweth the good seed, is the Son of man.
38And the field, is the world. And the good seed are the children of the kingdom. And the cockle, are the children of the wicked one.
39And the enemy that sowed them, is the devil. But the harvest is the end of the world. And the reapers are the angels.
40Even as cockle therefore is gathered up, and burnt with fire: so shall it be at the end of the world.
41The Son of man shall send his angels, and they shall gather out of his kingdom all scandals, and them that work iniquity.
42And shall cast them into the furnace of fire: there shall be weeping and gnashing of teeth.
43Then shall the just shine as the sun, in the kingdom of their Father. He that hath ears to hear, let him hear.
Job 42:6
View in: NAB
6Therefore I reprehend myself, and do penance in dust and ashes.
Romans 8:23
View in: NAB
23And not only it, but ourselves also, who have the firstfruits of the Spirit, even we ourselves groan within ourselves, waiting for the adoption of the sons of God, the redemption of our body.
Exodus 3:7-10
View in: NAB
7And the Lord said to him: I have seen the affliction of my people in Egypt, and I have heard their cry because of the rigour of them that are over the works:
8And knowing their sorrow, I am come down to deliver them out of the hands of the Egyptians, and to bring them out of that land into a good and spacious land, into a land that floweth with milk and honey, to the places of the Chanaanite, and Hethite, and Amorrhite, and Pherezite, and Hevite, and Jebusite.
9For the cry of the children of Israel is come unto me: and I have seen their affliction, wherewith they are oppressed by the Egyptians.
10But come, and I will send thee to Pharao, that thou mayst bring forth my people, the children of Israel out of Egypt.
1 Corinthians 2:11-13
View in: NAB
11For what man knoweth the things of a man, but the spirit of a man that is in him? So the things also that are of God no man knoweth, but the Spirit of God.
12Now we have received not the spirit of this world, but the Spirit that is of God; that we may know the things that are given us from God.
13Which things also we speak, not in the learned words of human wisdom; but in the doctrine of the Spirit, comparing spiritual things with spiritual.