Bài đọc I và bản văn Tin Mừng cách nhau khoảng tám trăm năm nhưng lại đối đáp với nhau với cung điệu bi thương: Ít-ra-en, vườn nho mà Đức Chúa đã tận tình chăm sóc, đã không sinh những trái nho ngọt, nhưng chỉ toàn những trái nho chua.
Isaiah 5:1-7
Ngôn sứ I-sai-a, trong một bài ca trữ tình theo thể hát đối, ca ngợi vườn nho được người chủ hết lòng chăm sóc, nhưng vườn nho lại sinh trái nho dại trái với lòng mong ước của ông. Lúc đó, giọng nói của vị ngôn sứ vang lên: vườn nho vô ơn bạc nghĩa, “chính là dân Ít-ra-en”.
Matthew 21:33-43
Tin Mừng là dụ ngôn các tá điền gian ác. Sau khi đã giết các tôi tớ của ông chủ vườn nho, chúng giết cả người con một của ông để mong chiếm đoạt vườn nho.
Pl 4: 6-9
Giữa hai bản văn bi thương nầy, sứ điệp của thánh Phao-lô gởi đến cho các tín hữu Phi-líp-phê thì ngược lại, sứ điệp tràn ngập bình an, chan chứa tin tưởng và đầy lòng nhân ái.
BÀI ĐỌC I (Isaiah 5:1-7)
Bài ca vườn nho này của ngôn sứ I-sai-a rất nổi tiếng, vì giá trị văn chương của nó: một tuyệt tác thi ca. Trước đây, hình ảnh dân Ít-ra-en được sánh ví với vườn nho hay cây nho của Đức Chúa đã được ngôn sứ Hô-sê phác họa rất giản dị. Sau đó, ngôn sứ I-sai-a, một thi sĩ tài hoa, đã đón nhận nguồn thi hứng này mà dệt nên bài ca khôn sánh này. Thế nên, hình ảnh nầy được lập đi lập lại nhiều lần, trong sách Đệ Nhị Luật (32: 32), trong Thánh Vịnh (Tv 80), trong sách Giê-rê-mi-a (2: 21; 5: 10; 6: 9; 12: 10), trong sách Ê-dê-ki-en (15: 1-8; 19: 10-14), vân vân. Chúng ta gặp lại hình ảnh vườn nho trên môi miệng của Đức Giê-su rõ ràng quy chiếu đến bài ca của I-sai-a (Matthew 21:33-41).
1. Bối cảnh:
Niên biểu của bài ca vườn nho nầy có thể được đặt vào khoảng năm 737 trước Công Nguyên, nghĩa là vào giai đoạn đầu sứ vụ của ngôn sứ I-sai-a ở Giê-ru-sa-lem trước khi thành thánh bị quân Sy-ri liên minh với vương quốc Ít-ra-en vây hãm.
Những sứ điệp đầu tiên của vị ngôn sứ liên quan đến tội thờ ngẫu tượng của vương quốc Ít-ra-en mà thủ đô là Sa-ma-ri. Khi hướng nhìn về vương quốc Giu-đa mà thủ đô là Giê-ru-sa-lem, ngôn sứ I-sai-a thất vọng theo cách khác: bất công, áp bức những kẻ nghèo hèn cô thế, bạo lực, máu và nước mắt, giả nhân giả nghĩa, vân vân. Bài ca vườn nho của ông là một lời cảnh báo.
Chúng ta có thể hình dung vị ngôn sứ ngâm hay hát bài ca của ông trên hành lang đền thờ vào dịp lễ hội thu hoạch nho (sau nầy được gọi lễ Lều). Lễ hội nầy kéo dài một tuần lễ. Vào ngày khai mạc và ngày kết thúc, các nghi lễ diễn ra trong khuôn viên đền thánh. Dù thế nào, Pha-lệ-tinh là miền đất trồng nho, vì thế, vị ngôn sứ đánh thức độ nhạy cảm của một dân trồng nho.
2. Cấu trúc:
Bài ca được xây dựng theo cách thức của một bài ca trữ tình, nhưng lại là tình phụ bạc. Thiên Chúa là hôn phu và là người trồng nho, còn Ít-ra-en là hôn thê và là vườn nho. Trong bài ca nầy, hai hình ảnh “người trồng nho và cây nho” và “hôn phu và hôn thê” được lồng vào nhau một cách chặt chẽ. Đáp lại sự ân cần chiều chuộng của người chồng là sự bất trung của người vợ. Người chồng bị tình phụ xin đám đông phân xử. Như trong các bài ca trữ tình, bài ca nầy được sáng tác theo thể hát đối.
Trước hết, vị ngôn sứ, đại diện bạn mình là người trồng nho, cất tiếng hát (5: 1-2). Đoạn, đến phiên mình, chủ vườn nho thổ lộ nỗi niềm tâm sự và bừng bừng nổi giận (5: 3-6). Sau cùng, vị ngôn sứ tiếp lời, và lúc đó mặc khải gây choáng váng: chủ vườn nho không ai khác chính Đức Chúa; vườn nho không sinh huê lợi, chính là Ít-ra-en, dân bất trung sẽ bị trừng phạt vì tội phụ tình bạc nghĩa của mình (5: 7).
3. Bạn của chủ vườn nho:
Vị ngôn sứ tự xưng mình là “bạn của người chủ vườn nho”, chắc chắn tước hiệu nầy được gợi hứng từ “bạn của chàng rể” trong những bài ca hôn nhân (tước hiệu mà Gioan Tẩy giả sẽ áp dụng cho mình: Galatians 3:29). Bài ca mô tả vị hôn phu hết mực ân cần chiều chuộng vị hôn thê của mình như ông chủ vườn nho ân cần chăm sóc vườn nho của mình: rào giậu chung quanh, trồng giống nho tốt “trên sườn đồi màu mỡ”.
Một vọng gác trong vườn nho nói lên sự ân cần tận tình chăm sóc vườn nho: canh giữ ngày lẫn đêm, trông chừng những tên hái trộm, những con vật phá hoại …Than ôi, mặc cho những ân cần chăm sóc giữ gìn, vườn nho chỉ sinh những trái nho dại!
4. Chủ vườn nho:
Đến phiên mình, chủ vườn nho thổ lộ tâm can của mình. Ông xin toàn thể dân chúng làm chứng về những tận tâm tận lực của mình cho vườn nho chỉ là luống công vô ích: “Người Giê-ru-sa-lem, và dân Giu-đa hỡi”. Dụ ngôn trở nên rõ nét hơn. Theo hình ảnh nầy, đọc giả đã nhận ra chủ vườn nho thật sự là ai. Vườn nho vô ơn bội nghĩa sẽ đón nhận sự trừng phạt đích đáng: “Sẽ truyền lệnh cho mây, đừng để mưa tưới xuống”, đây là phép ngoa dụ đông phương, nhưng cũng để cho thoáng thấy ở đây một chủ vườn nho quyền năng.
5. Bạn của chủ vườn nho:
Vị ngôn sứ lại cất tiếng hát. Mặc khải của ông được chuẩn bị thật khéo léo. Dân chúng tự kết án mình vì họ không còn cách nào ngoài thú nhận mình là vườn nho được Thiên Chúa vun trồng chăm sóc hết mực nhưng chỉ sinh những trái nho dại: “Người những mong họ sống công bình, mà chỉ thấy toàn đổ máu; đợi chờ họ làm điều chính trực, mà chỉ nghe những tiếng khóc than”.
Phương pháp tâm lý nầy nhắc nhớ phương pháp mà ngôn sứ Na-than đã áp dụng cho vua Đa-vít, khi vua cướp đoạt vợ của U-ri. Na-than cũng xây dựng một dụ ngôn, dụ ngôn về người giàu cướp đoạt con chiên độc nhất của người nghèo. “Vua Đa-vít bừng bừng nổi giận với người ấy”. Na-than nói với vua: “Kẻ đó chính là Ngài” (2Sm 12: 1-7). Ngôn sứ I-sai-a cũng theo một cách như vậy: “Vườn nho của Chúa Tể càn khôn, chính là nhà Ít-ra-en đó. Cây nho Người mến yêu quí chuộng, ấy là dân nước Giu-đa”.
BÀI ĐỌC II (Pl 4: 6-9)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Phi-líp-phê. Trong đoạn trích này, thánh nhân đề nghị một khuôn mẫu sống, theo đó di sản Do thái giáo, mặc khải Ki-tô giáo và lý tưởng Hy-lạp hòa hợp với nhau.
1. Di sản Do thái giáo:
“Trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giải bày trước mặt Chúa những điều anh em thỉnh nguyện”. Nét đặc trưng của lời cầu nguyện Do thái được biểu lộ qua việc lập đi lập lại những lời ngợi ca cảm tạ tri ân: “Ngợi khen Thiên Chúa…Chúc tụng Thiên Chúa…”, để khấn xin Thiên Chúa luôn rủ lòng thương. Mặt khác, lời ngợi ca được xen kẻ vào với những lời thỉnh nguyện. Các Thánh Vịnh làm chứng rất rõ nét điều nầy. Thánh Phao-lô, trung thành với truyền thống nầy, dễ dàng thích ứng truyền thống nầy vào trong lời cầu nguyện Kitô giáo và khuyên bảo các tín hữu Phi-líp-phê thực hành như thế.
2. Mặc Khải Ki-tô giáo:
“Bình an của Thiên Chúa, là bình an không ai hiểu thấu, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hiệp với Đức Giê-su Ki-tô”. Chúc bình an cũng thuộc vào truyền thống Do thái giáo. Ở đây, không chỉ cầu xin “bình an”, nhưng còn những ơn khác nữa. Theo gương Đức Giê-su, thánh nhân đem đến cho chữ “bình an” một chiều kích mới. Đối với thánh nhân, bình an của Thiên Chúa, chính là bình an mà hy tế của Đức Giê-su đã mang lại cho chúng ta. Trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã hòa giải muôn loài muôn vật với mình. Nhờ Thánh Thần của Ngài, Ngài toả rạng bình an giữa các Ki-tô hữu và giữa các Ki-tô hữu và muôn dân. Bình an là một khía cạnh của sự sống đời đời, được khởi sự từ dưới thế nầy.
3. Lý tưởng Hy-lạp:
Thánh Phao-lô ngỏ lời với những người Ki-tô hữu gốc Hy-lạp. Thánh nhân bảo họ đừng từ bỏ, nhưng hãy thấm nhập vào trong con người họ những đức hạnh mà truyền thống cha ông của họ đã dạy: “Những gì là đức hạnh đáng khen, thì xin anh em hãy để ý”.
Như vậy, thánh Phao-lô đã không dửng dưng trước lý tưởng luân lý của truyền thống văn hóa Hy lạp. Ki-tô giáo không nhằm loại bỏ “những gì là chân thật, cao quí, những gì là chính trực, tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt”. Thánh nhân đã hình thành nên “học thuyết nhân bản Ki-tô giáo”. Nhưng học thuyết nầy để thực sự là Ki-tô giáo phải dựa vào giáo huấn tông đồ để không có bất kỳ khiếm khuyết nào và sai lệch nào: “Những gì anh em đã học hỏi, đã hấp thụ, đã nghe, đã thấy nơi tôi, thì hãy đem ra thực hành”.
Lời kêu gọi hãy trung tín này đem lại cho đoạn thư này một cung giọng hòa hợp với hai bài đọc khác (bài đọc I và bài Tin Mừng), ở đó những bất trung của Ít-ra-en bị cực lực lên án.
TIN MỪNG (Matthew 21:33-43)
Tiếp theo dụ ngôn hai người con mà chúng ta đã đọc trong Chúa Nhật vừa qua, thánh Mát-thêu ghi tiếp dụ ngôn những tá điền gian ác trong cùng một chiều hướng và cùng một đối tượng.
1. Dụ ngôn:
Đức Giê-su mượn ở nơi bài thơ của ngôn sứ I-sai-a hình ảnh ông chủ vườn nho: “trồng được một vườn nho; chung quanh vườn, ông rào giậu; ông khoét một bồn đạp nho, và xây một vọng gác”, nhưng lại khai triển theo một chiều hướng khác với I-sai-a. Trong sấm ngôn của I-sai-a, đối tượng được nhắm đến là vườn nho. Dù được chăm sóc chu đáo, nhưng vườn nho lại sinh những trái nho dại, vì thế, bị bỏ rơi thành hoang phế. Trái lại, trong dụ ngôn, đối tượng mà Chúa Giê-su nêu bật là thái độ gian ác của bọn tá điền.
Ông chủ vườn nho “trẩy đi xa” và để vườn nho cho bọn tá điền thuê. Đến mùa thu hoạch, chủ vườn nho sai gia nhân của mình đến thu hoạch huê lợi. Các tá điền không chỉ không giao nộp huê lợi như giao ước, trái lại “chúng đánh người nầy, giết người kia, ném đá người nọ”.
Vẫn một mực nhẫn nại, ông chủ vườn nho cố thử thêm một lần nữa: “sai một số đầy tớ khác đông hơn trước; nhưng bọn tá điền vẫn cư xử với họ y như vậy”. Cuối cùng, ông quyết định liều sai đứa con trai một của mình. “Thế là chúng bắt lấy cậu, lôi ra ngoài vườn nho và giết chết cậu”.
2. Ý nghĩa của dụ ngôn đối với lịch sử cứu độ:
Dụ ngôn nầy diễn tả một cách ngắn gọn cả một lịch sử cứu độ dài, một thiên tình sử giữa Đức Chúa với dân Ngài. Vườn nho của Đức Chúa chính là dân Ít-ra-en. Ngài đã trao cơ nghiệp của Ngài cho các giai cấp lãnh đạo Do thái để họ chăm sóc và làm trổ sinh hoa trái. Biết bao lần, Thiên Chúa đã sai các ngôn sứ đến nhắc nhở họ phải trung thành tuân giữ giao ước, nhưng họ đã ngược đãi, bách hại và giết chết các ngài. Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn sai lần lượt các ngôn sứ nầy đến các ngôn sứ khác, nhưng họ không hề thay đổi, vẫn hành xử các ngài theo cùng một cách như thế. Nhưng sự nhẫn nại của Thiên Chúa vẫn không hề vơi, cuối cùng Ngài sai chính con một của Ngài với hy vọng: “Chúng sẽ nể con ta”. Nhưng lòng gian ác của họ đã đạt đến cực điểm. Họ đã tra tay bắt lấy người con một của Ngài và lôi ra ngoài thành thánh Giê-ru-sa-lem mà giết đi để mong chiếm đoạt gia sản của Ngài.
Qua dụ ngôn nầy, Đức Giê-su quy trách nhiệm cho giai cấp lãnh đạo Do thái còn cứng rắn hơn dụ ngôn hai con trai trước đó. Đồng thời, Ngài cũng kín đáo và thống thiết muốn cho họ hiểu rằng Ngài là Con Thiên Chúa và sắp bị giết chết bởi sự gian ác của họ.
3. Ý nghĩa dụ ngôn đối với Giáo Hội.
Như vị ngôn sứ trong bài ca vườn nho, Đức Giê-su xin thính giả của Ngài, tức giai cấp lãnh đạo Do thái, phân xử. Những người nầy phẩn nộ về thái độ của bọn tá điền, không ngờ chính mình lại tự kết án mình. Và như dụ ngôn hai người con trước đây, ở đoạn cuối, ý nghĩa của dụ ngôn được Chúa Giê-su giải thích rõ ràng.
Đức Giê-su trích dẫn Tv 118: ‘Viên đá người thợ xây loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Ấy là Chúa đã làm nên như vậy, trước mắt chúng ta, thật lạ lùng”. Thánh Vịnh nầy ca ngợi việc chấn hưng dân Ít-ra-en tương lai và được giải thích như Thánh Vịnh Mê-si-a. Giáo Hội tiên khởi đã thấy ở đây một lời loan báo về sự Phục Sinh của Đức Kitô (x. Cv 4: 11 và 1Proverbs 2:7).
Con Thiên Chúa can thiệp và bị giết chết, xem ra là một sự thất bại rõ ràng. Nhưng nhờ cái chết của Người Con nầy, một dân mới, được biểu thị không còn bởi hình ảnh vườn nho nhưng tòa nhà. Toà nhà nầy, Đức Giê-su sẽ là viên đá góc tường, sẽ được xây dựng trên nền móng vững chắc: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Matthew 16:18).
4. Tính thời sự của dụ ngôn:
Thánh Mát-thêu thuật lại dụ ngôn này sau năm 70, nghĩa là sau năm quân đội Rô-ma triệt hạ thành thánh Giê-ru-sa-lem phá hủy đền thờ, và dân Do thái bị tản mác khắp nơi không còn giai cấp lãnh đạo nữa. Vậy khi thuật lại dụ ngôn này, thánh Mát-thêu không còn đặt dấu nhấn trên tính lịch sử cho bằng tính thời sự của dụ ngôn. Vườn nho là Giáo Hội của Đức Ki-tô. Các vị lãnh đạo của Giáo Hội là những tá điền được thuê làm canh tác để vườn nho sinh nhiều hoa trái. Vì thế, khi dụ ngôn bọn tá điền gian ác được công bố trong Phụng Vụ Ki-tô giáo, thì dụ ngôn này là lời cảnh báo được gởi đến các vị lãnh đạo hiện thời của Giáo Hội Chúa Ki-tô. Giáo Hội là dân của Thiên Chúa, mà Đức Giê-su đã sinh hạ trong đau đớn trên thập giá (Ga 19: 31-34), chứ không là của vị lãnh đạo này hay vị lãnh đạo khác. Nói cách khác, các vị lãnh đạo chỉ là những tá điền chứ không là chủ nhân của vườn nho Chúa. Tính lịch sử có qua đi nhưng tính thời sự của dụ ngôn vẫn mãi mãi là bài học nhớ đời.
Lm Inhaxiô Hồ Thông