Chủ đề Chúa Nhật này là tính hữu hiệu của Lời Thiên Chúa.
Isaiah 55:10-11
Trong đoạn trích tác phẩm ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, Lời Thiên Chúa được sánh ví với ơn mưa móc làm cho hạt giống đâm chồi nẩy lộc sinh hoa kết trái và đem lại cơm bánh cho con người.
Romans 8:18-23
Đoạn trích thư thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Rô-ma mời gọi suy niệm, bên kia mầu nhiệm đau khổ, số mệnh vinh quang đang chờ đón không chỉ con cái Thiên Chúa nhưng còn muôn loài muôn vật nữa.
Matthew 13:1-23
Tin Mừng tường thuật dụ ngôn người gieo giống. Chúa Giê-su sánh ví lời Ngài với hạt giống sinh hoa kết trái hay không tùy theo mảnh đất mà nó được gieo. Ở nơi những mảnh đất tốt, nó có thể cho một vụ mùa bội thu.
BÀI ĐỌC I (Isaiah 55:10-11)
Bản văn này nêu bật tính hữu hiệu của lời Thiên Chúa có thể được sánh ví với ơn mưa móc làm cho đất phì nhiêu. Bản văn này được chọn vì nó có mối liên hệ thân cận với dụ ngôn về người gieo giống trong Tin Mừng hôm nay. Bản văn này trích từ chương cuối cùng của tác phẩm I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ của thời lưu đày Ba-by-lon này an ủi những người đồng hương bất hạnh của ông khi hứa với họ rằng Đức Chúa sắp ra tay giải thoát họ.
1. Tính hữu hiệu của Lời Chúa:
Vị ngôn sứ khẳng định, một lời hứa như thế không thể nào dối trá được, vì lời Thiên Chúa nhất thiết phải xảy ra. Quả thật, theo quan niệm Kinh Thánh, lời Thiên Chúa không phải chỉ là một sứ điệp, một mặc khải, một lời mời gọi, nhưng còn là một thực tại năng động có uy lực chắc chắn gây nên tính hiệu quả mà Thiên Chúa nhắm đến. Bằng lời của Ngài, Thiên Chúa đã tạo dựng muôn loài muôn vật từ hư không (Gs 21: 45; 1V 8: 56). Tiếp đó, các biến cố xảy ra trong lịch sử đều tuân theo lời của Ngài (Isaiah 44:7). Lời Ngài một khi đã thốt ra sẽ không trở về với Ngài một cách vô ích, cũng như mưa từ trời xuống nhất thiết sẽ thấm nhuần đất đai, cho đất trở nên phì nhiêu, cho cây cối đâm chồi nẩy lộc, sinh hoa kết trái, cho loài người có cơm bánh ăn.
Việc sánh ví này không thuần túy thi ca: “nước là hình ảnh của ơn cứu độ”, và “mưa, dấu chỉ của sự ơn cứu độ nhưng không”. Ở đầu bài thơ của mình, vị ngôn sứ đã nhắc nhớ rằng nước trời ban nên không phải trả đồng nào: “Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây. Dẫu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng” (55: 1). Như vậy, vị ngôn sứ lại kêu gọi dân chúng hãy tin tưởng. Tính hữu hiệu của lời Thiên Chúa được chứng minh một cách tuyệt vời nhất đó sẽ là cuộc giải thoát những người lưu đày sắp đến. Ông hát vang lên ngay sau đoạn trích này: “Phải, các ngươi sẽ ra đi mừng rỡ hân hoan, rồi lũ lượt kéo về bình an vô sự” (55: 12).
2. Nhân cách hóa lời Chúa:
Trong bản văn này, lời Thiên Chúa được nhân cách hóa: lời Thiên Chúa được sánh ví như một sứ giả ra đi, được giao phó một sứ mạng và sẽ chỉ trở về khi nào sứ mạng được hoàn thành. Đức Giê-su sẽ hiện thân lời Thiên Chúa này. Ngài, Ngôi Lời Thiên Chúa, được Chúa Cha sai đến trần gian và sẽ trở về Chúa Cha chỉ khi nào Ngài hoàn tất sứ mạng cứu độ của mình.
BÀI ĐỌC II (Romans 8:18-23)
Chúng ta tiếp tục đọc chương 8 thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Rô-ma.
Thánh nhân vừa mới chứng tỏ rằng vận mệnh của người Ki-tô hữu được liên kết với vận mệnh của Đức Ki-tô, vì người Ki-tô hữu được làm con cái Thiên Chúa và đồng thừa tự với Đức Ki-tô: “Vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người”.
Từ mầu nhiệm đau khổ này, thánh Phao-lô sẽ rút ra hai bài học: bài học thứ nhất liên quan đến vận mệnh cá nhân của mỗi người Ki-tô hữu, bài học thứ hai liên quan đến vận mệnh của muôn loài trong vũ trụ. Thánh nhân định vị mình trong những viễn cảnh cánh chung, nghĩa là những viễn cảnh của ngày tận thế.
1. Vận mệnh vinh quang của con cái Thiên Chúa:
“Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ, sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa đã mặc khải nơi chúng ta”. Qua những đau khổ chúng ta chịu bây giờ, thật ra phải hiểu những đau khổ do hoàn cảnh trần thế người Ki-tô hữu đang sống, nhưng chắc chắn những gian nan thử thách mà họ phải chịu trong cuộc chiến đấu chống tội lỗi. Đau khổ tự nó không là nguồn mạch vinh quang, nhưng nhờ hiệp thông với Đức Ki-tô. Chính trong Đức Ki-tô mà đau khổ và vinh quang là hai khía cạnh của một mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh.
2. Vận mệnh của muôn loài trong vũ trụ:
Đạo lý mà thánh Phao-lô khai triển không xuất phát từ một hệ thống triết học, cũng không từ một vũ trụ quan nào đó, nhưng được đặt nền tảng trên Kinh Thánh. Muôn loài đã được sáng tạo cho con người; chúng liên đới với vận mệnh của con người; chúng đã bị nguyền rủa do tội lỗi của con người: “Đất đai bị nguyền rủa vì ngươi; ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra” (St 3: 17). Lời nguyền trút xuống trên đất đai chứ không trên con người. “Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn, nhưng vì Thiên Chúa bắt chịu vậy”. Thánh Phao-lô cho rằng đạo lý này nằm trong cái logic kế hoạch của Thiên Chúa, theo đó, muôn loài, vì cùng chung số phận với con người, dự phần vào ơn cứu độ và được giải thoát khỏi cảnh hư nát. Quả thật, các ngôn sứ đã loan báo muôn loài muôn vật sẽ được đổi mới, như “Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới, không còn ai nhớ đến thuở ban đầu và nhắc lại trong tâm trí nữa. Nhưng thiên hạ sẽ vui mừng và luôn mãi hỷ hoan vì những gì chính Ta sáng tạo…” (Isaiah 65:17-25; 11:5-9). Thánh Phao-lô ám chí đến điều này: “Thật vậy, chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ, muôn loài trong vũ trụ cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh con”.
Vả lại, văn chương khải huyền đã triển khai những niềm hy vọng thời Mê-si-a. Văn chương này, vượt qua cái khung chủ nghĩa quốc gia chật hẹp, đã mở rộng những niềm hy vọng này đến toàn thể nhân loại, và thậm chí đến cả muôn vật vô tri vô giác. “Thế giới tương lai” được mô tả như một thế giới được thay hình đổi dạng ở đó những thực tại thiên giới đột nhập vào. Thư thứ hai của thánh Phê-rô gợi lên bằng những ngôn từ khải huyền: “Trong khi mong đợi ngày của Thiên Chúa và làm cho ngày đó mau đến, ngày mà các tầng trời sẽ bị thiêu hủy và ngũ hành sẽ cháy tan ra trong lửa hồng. Nhưng theo lời Thiên Chúa hứa, chúng ta mong đợi trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị” (2Proverbs 3:12-13).
Trong các thư được viết trong cảnh bị giam cầm, thánh Phao-lô sẽ lấy lại viễn cảnh vĩ đại này, bằng những biểu thức ngắn gọn hơn. Trong thư gởi các tín hữu Cô-lô-sê, thánh Phao-lô chúc tụng Đức Ki-tô, thủ lãnh vũ trụ, nhờ Ngài và cho Ngài “Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Colossians 1:20). Đây cũng là những dấu nhấn trong thư gởi các tín hữu Ê-phê-sô (1: 9-13).
3. Vai trò của Chúa Thánh Thần:
Đạo lý của thánh Phao-lô được xây dựng trên thần học Nhập Thể, Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô, ở đó Chúa Thánh Thần đóng vai trò tối quan trọng. Chính Chúa Thánh Thần đã khai mào việc biến đổi này rồi ở trong chúng ta và cho phép chúng ta trông chờ“cứu chuộc toàn thể con người chúng ta”. Cũng như vậy đối với muôn loài muôn vật, tức là toàn thể thế giới hữu hình biệt phân với loài người. Vì thế, tư tưởng thánh Phao-lô ngược lại với tư tưởng Hy-lạp. Trong khi tư tưởng Hy-lạp mong muốn giải thoát tinh thần khỏi vật chất, thì thánh Phao-lô nhắm đến việc khôi phục vật chất bởi Chúa Thánh Thần.
Giáo Hội không từ chối viễn cảnh của thánh Phao-lô. Công Đồng Vatican II đón nhận nguồn cảm hứng theo chiều hướng này (được Teilhard de Chardin gợi hứng một phần).
TIN MỪNG (Matthew 13:1-23)
Trong chương này, thánh Mát-thêu tập hợp bảy dụ ngôn, trong số đó, bốn dụ ngôn: cỏ lùng, kho báu, ngọc quý và chiếc lưới, chỉ được gặp thấy tại thánh nhân. Còn hai dụ ngôn: người gieo giống và hạt cải, cùng chung với thánh Mác-cô và thánh Lu-ca, và một dụ ngôn: men trong bột, chỉ chung với thánh Lu-ca.
Bảy dụ ngôn này tạo thành một tổng thể thuần nhất: cả bảy dụ ngôn đều có liên hệ tới “Nước Trời”.
1. Dụ ngôn:
Dụ ngôn là cách “sánh ví”. Các dụ ngôn là những thực tại khả giác thường ngày được dùng để nói về những thực tại tinh thần vốn cao siêu mầu nhiệm khó nắm bắt được. Vào thời Đức Giê-su, các kinh sư thường hay sử dụng phương pháp này để khêu gợi sự chú ý và khơi dậy những suy tư. Họ dựa trên một tập quán vốn đã có từ lâu. Các ngôn sứ đã là mẫu gương và truyền thống đã gán cho vua Sa-lô-mon là nhà khai sinh các bài dụ ngôn.
2. Người gieo giống:
Khi dùng những hình ảnh quen thuộc đối với thính giả Ga-li-lê của Ngài, Chúa Giê-su mô tả việc gieo giống và số phận dành cho hạt giống tùy theo vùng đất tiếp nhận nó: sỏi đá, bụi gai, vệ đường; ngoài ra, còn có những chướng ngại đến từ bên ngoài: chim trời, nắng cháy. Nhưng “có hạt rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa kết quả nhiều: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục”. Hình ảnh này rất ấn tượng, vì vào những vụ mùa bội thu nhất ở Pha-lệ-tinh mỗi hạt giống chỉ có thể cho sản lượng từ mười đến mười hai hạt lúa.
Qua những gợi ý này, Đức Giê-su muốn giải thích cho đám đông – nếu như họ muốn hiểu – cũng như cho các môn đệ Ngài, những khó khăn mà sứ điệp của Ngài gặp phải. Bởi vì, chính Ngài là “người gieo giống” ra đi gieo lời Thiên Chúa, như thánh Mát-thêu viết: “Hôm ấy, Đức Giê-su từ trong nhà đi ra”.
Thêm nữa, dụ ngôn người gieo giống tự nó cũng muốn nói rằng Thiên Chúa không áp đặt nhưng đề nghị. Ngài gieo vãi hạt giống một cách dồi dào, thậm chí ở những nơi chúng có nguy cơ bị mất đi. Về phía con người, Đức Giê-su đã cho thấy rằng hạt giống chỉ có thể sinh hoa kết quả dồi dào khi gặp được những mãnh đất tốt, nghĩa là, tính hiệu quả của lời Ngài cốt yếu tùy thuộc vào tư thế của những người đón nhận và tùy thuộc vào cách sống của họ.
3. Tiếp đón Lời:
Các môn đệ không hiểu ngay ý định của Đức Giê-su: “Thưa Thầy, sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với họ?”. Câu trả lời của Đức Giê-su thật rõ ràng: “Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không”. Đây là một lần duy nhất từ “mầu nhiệm” xuất hiện trong các sách Tin Mừng.
Tiếp đó, Đức Giê-su còn nghiêm khắc hơn: “Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ còn dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, thì cũng sẽ bị lấy mất”. Có thể Đức Giê-su trích dẫn một câu châm ngôn và Ngài Đức áp dụng câu châm ngôn này vào việc tiếp đón Lời Ngài. Ai chân thành mở rộng lòng mình trước ánh sáng sứ điệp của Ngài, người ấy sẽ còn nhận được nhiều ánh sáng hơn nữa. Đó là trường hợp các môn đệ, những người Đức Giê-su mặc khải mầu nhiệm Nước Trời cho họ, vì lòng trí của họ trong tư thế sẵn sàng mở ra đón nhận.
Trái lại, dân chúng có thiện cảm với Ngài lại ngộ nhận con người của Ngài. Họ không nhận ra Ngài là Đấng được Thiên Chúa sai đến ở nơi những dấu chỉ mà Ngài ban cho họ. Vì thế, họ gắn bó với Ngài một cách nông cạn. Còn các kinh sư và nhóm Pha-ri-sêu tiếp đón lời Ngài còn lạnh nhạt hơn; họ không có bất kỳ thành tâm thiện chí nào. Thế nên, ai không chịu mở tâm trí ra để đón tiếp ánh sáng thì càng mù tối hơn nữa. Trên sỏi đá, hạt giống không thể nào sinh hoa kết quả, chẳng đem lại lợi ích gì, nên được thu lại thì hơn.
4. Lòng chai dạ đá:
“Bởi thế, nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu”.
Các dụ ngôn của Đức Giê-su thì trong sáng và rõ ràng. Đức Giê-su không cố làm cho lời dạy của Ngài khó hiểu để làm nhụt chí thính giả của Ngài. Trái lại, khi dùng những ngôn từ cụ thể, những hình ảnh thường ngày, Ngài cố chuyển giao cho họ những chân lý khó nắm bắt. Thánh Mát-thêu nhấn mạnh điều đó xa hơn khi trích dẫn Tv 78: 2: “Mở miệng ra, tôi sẽ nói dụ ngôn, công bố điều huyền bí thuở xa xưa”.
Đám đông này có lắng tai nghe mà không hiểu được. Đức Giê-su muốn chữa họ khỏi những giấc mơ sai lầm và lòng nhiệt tình vô ích; Ngài lấy làm tiếc vì những tâm trí mù lòa của họ, có thể được sánh ví với những tâm trí mà ngôn sứ I-sai-a đã gặp rồi vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên:“Lòng dân này đã ra chai đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe…và rồi Ta sẽ phải chữa chúng cho lành”. Sấm ngôn I-sai-a này được cả ba sách Tin Mừng nhất lãm (Matthew 13:14-15; Mc 4: 12; Lc 8: 10) cũng như thánh Gioan (Ga 12: 40) kể ra và cũng được dùng để kết thúc sách Công Vụ Tông Đồ. Vì thế, chúng ta có thể nói rằng sấm ngôn này đã được ứng nghiệm: việc dân Ít-ra-en từ chối là một sự kiện được ứng nghiệm; vì thế “ơn cứu độ này của Thiên Chúa đã được gởi đến cho các dân ngoại” (Cv 28: 26).
Sấm ngôn I-sai-a này được trích từ chuyện kể về ơn gọi của vị ngôn sứ. Đức Chúa cho vị ngôn sứ hiểu rằng sứ mạng của ông sẽ khó khăn, vì ông sẽ phải ngỏ lời với một dân cố bịt tai nhắm mắt và rồi thế nào sứ mạng cũng sẽ phải thất bại. Cách diễn tả mang đậm nét sê-mít và dể gây ra sự mâu thuẫn: “Hãy làm cho lòng dân này ra đần độn, cho tai nó điếc, cho mắt nó mù; kẻo mắt nó thấy, tai nó nghe và lòng nó hiểu, mà trở lại và được chữa lành” (Isaiah 6:10). Và Đức Chúa loan báo một sự trừng phạt khủng khiếp: “Và nếu ở đó còn sót lại một phần mười, thì đến lượt phần đó cũng sẽ bị lửa thiêu, như một cây vân hương, một cây sồi bị đốn, chỉ còn sót lại cái gốc thôi. Gốc ấy là một mầm giống thánh” (Isaiah 6:13). Hoàn cảnh mà vị ngôn sứ đã gặp phải chẳng khác nào hoàn cảnh của Đức Giê-su.
5. Những người gieo giống tương lai:
Tương phản với nhũng viễn cảnh bi quan này, Đức Giê-su cho thấy niềm vui mà niềm tin của nhóm nhỏ môn đệ của Ngài đem lại cho Ngài, những người mà Ngài sẽ làm cho họ trở thành những người gieo lời Ngài trong tương lai. Họ sẽ vấp phải những khó khăn tương tự, nhưng ở nơi những mảnh đất tốt họ sẽ thu hoạch một vụ mùa kỳ diệu. Chúa Giê-su lập lại những con số thật ấn tượng: “kẻ được gấp trăm, kẻ được sáu chục, kẻ được ba mươi”. Bởi vì, tính hữu hiệu của lời Chúa không thể nào nghi ngờ được.
Từ đó, người ta hiểu tại sao Đức Giê-su nói về sứ mạng của Ngài bằng ngôn ngữ vụ mùa: “Hạt giống phải chết đi mới sinh được nhiều hoa trái”. “Hạt giống phải chết đi mới sinh được nhiều hoa trái” này sẽ là chính Ngài phải chết đi mới đem lại ơn cứu độ cho muôn người.
Lm Inhaxiô Hồ Thông