Trong cả ba năm phụng vụ, Chúa Nhật II Mùa Chay đều tường thuật biến cố Biến Hình. Biến cố nầy nhắc nhở cho người Kitô hữu thời gian Mùa Chay không chỉ được dự phần vào mầu nhiệm đau khổ và sự chết, nhưng cũng vào mầu nhiệm Phục Sinh vinh quang. Đó cũng là bài học mà Bài Đọc I và Bài Đọc II nhắc nhở cho chúng ta.
St 12: 1-4
Bài đọc I, trích từ sách Sáng Thế là chuyện kể về ơn gọi của ông Áp-ra-ham. Vâng theo tiếng gọi mầu nhiệm, ông Áp-ra-ham rời bỏ quê hương và gia tộc của mình để đi đến một vùng đất xa lạ. Ông gắn bó với một Thiên Chúa duy nhất, Đấng ông đã đón nhận Lời Hứa tuyệt vời của Ngài. “Vì thế, do một con người duy nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được” (Dt 11: 12).
2Tm 1: 8b-10
Viết cho Ti-mô-thê, người môn đệ thân yêu của mình đang trải qua thời gian thử thách, thánh Phao-lô nhắc nhở tính hiệu quả tâm linh của sự đau khổ: vì chỉ có đau khổ mới đảm bảo cho việc loan báo Tin Mừng sinh hoa kết trái thiêng liêng và dẫn chúng ta đến cuộc sống bất tử.
Matthew 17:1-9
Tin Mừng hôm nay là bài tường thuật về cuộc Biến Hình theo thánh Mát-thêu. Biến cố nầy được đặt trong văn mạch với việc Đức Giê-su lần đầu tiên tiên báo cuộc thương khó của Ngài (Matthew 16:21-23). Lời loan báo nầy đã gây nên cơn choáng váng đối với các môn đệ của Ngài. Vì thế, như một cách thức giải tỏa sự kỳ chướng của thập giá, Đức Giê-su đã đem ba môn đệ lên núi cao và ở đó Ngài thay đổi hình dạng trước mắt các ông để nói với các ông: Đau khổ và tử nạn là con đường cứu độ mà Ngài phải đi qua, nhưng đây không là một ngõ cụt mà là sự khai mào cho cuộc Phục Sinh vinh hiển. Vì thế, biến cố Biến Hình là một sự tham dự trước Phục Sinh vinh quang.
BÀI ĐỌC I (St 12 : 1-4)
Phần thứ nhất của sách Sáng Thế (ch. 1-11) gợi lên nguồn gốc thế giới và nhân loại. Phần thứ hai (ch. 12-50) tường thuật nguồn gốc dân Do thái và lịch sử các Tổ Phụ của họ. Bài đọc I, trích từ đoạn đầu phần thứ hai sách Sáng Thế, bao gồm ơn gọi, lời hứa và lời chúc phúc.
1. Ơn gọi (St 12: 1):
Khi ấy, Chúa phán với ông Áp-ra-ham: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, đến đất Ta sẽ chỉ cho ngươi.”
Lời dẫn nhập nầy quy chiếu đến những sự kiện trước đó của chương 11. Ông Te-ra, cha của ông Áp-ra-ham, sống ở Ua, một thành phố lớn ở Hạ Lưỡng Hà Địa. Lúc đó, miền nầy chưa được gọi Can-đê (danh xưng nầy chỉ xuất hiện trong các bản văn vào thế kỷ XI BC), nhưng là Su-me trong đó thành Ua là một trong những chiếc nôi của nền văn minh Su-me rực rỡ nầy. Một ngày kia, ông Te-ra quyết định rời bỏ thành Ua, quê hương của mình, cùng với bộ tộc của mình “để đi tới đất Ca-na-an” (St 11: 31). Nhưng Ông Te-ra cùng bộ tộc của mình dừng lại ở Kha-ran phía bắc miền Lưỡng Hà Địa và định cư lập nghiệp ở đó. Nhưng ông Áp-ra-ham tiếp tục cuộc hành trình của mình về một vùng đất xa lạ. Phải chăng ông muốn thực hiện ước nguyện của cha ông khi rời bỏ thành Ua: “đi tới đất Ca-na-an”? Thật ra, ông Áp-ra-ham chỉ quyết định rời bỏ Kha-ran sau khi cha ông qua đời (x. Cv 7: 4)
Phải chăng khi rời bỏ Kha-ran để đi tới đất Ca-na-an, ông Áp-ra-ham vâng theo một sự thôi thúc nội tâm? Hay phải chăng nhà biên soạn Kinh Thánh phát hiện, không phải vô căn cớ, ở nơi cuộc hành trình nầy một biến cố quan phòng? Thật khó xác định rõ ràng. Dù thế nào, truyền thống luôn luôn gìn giữ ký ức sống động về lộ trình tâm linh của ông Áp-ra-ham. Đó là một đề tài gây kinh ngạc vì nhiều lẽ.
Vị tổ phụ gắn bó mật thiết với một Thiên Chúa độc nhất, loại bỏ các vị thần khác của tôn giáo cha ông. Đây là một kinh nghiệm mầu nhiệm đặc biệt, biến cố trọng đại, khởi điểm của ơn tuyển chọn Ít-ra-en.
Khi gọi ông Áp-ra-ham ra đi, Thiên Chúa đòi hỏi nơi ông một hành vi đức tin: cắt đứt mọi ràng buộc của quê hương và họ hàng để ra đi đến một miền đất chưa được xác định:“đến đất mà Ta sẽ chỉ cho người.” Hơn nữa, vào lúc đó, Ngài chưa hứa với ông: “đến đất mà Ta sẽ ban cho ngươi” hay “đến đất mà hậu duệ người sẽ sở hữu”. Ông Áp-ra-ham chấp nhận vâng lời bằng hành vi tin tưởng và phó thác: “Ông A-bra-ham ra đi, như Chúa đã truyền cho ông” .
Chính trong khi sống trong kiếp lang bạt từ Kha-ran đến Ai-cập, đoạn đến Khép-rôn mà A-bra-ham đã chia sẻ thân phận của biết bao người vào thời đó, vì những biến động lịch sử họ phải tha phương lang bạt khắp nơi. Tuy nhiên, chính cũng trong kiếp sống lang bạt đó mà ông Áp-ra-ham càng ngày càng hiểu biết Thiên Chúa của ông hơn, gắn bó mật thiết với Thiên Chúa hơn, Đấng hiện diện với ông trong cảnh đời vô định và cũng phán với ông qua những bất tất lịch sử. Dù ông Áp-ra-ham không thấy ngay tức khắc tất cả những thành quả của lời hứa, nhưng ông đặt để tương lai của mình vào trong sự tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa của ông.
Đây là khuôn mẫu của các bài tường thuật về ơn gọi trong Cựu Ước: Thiên Chúa gọi những lãnh tụ, sứ giả, ngôn sứ … ; Ngài đòi hỏi họ một sự thoát ly, tiến về phía trước mà không nhớ tiếc quá khứ hay lưu luyến tình thân.
Đức Giê-su cũng sẽ có một thái độ dứt khoát từ bỏ như thế và Ngài cũng đòi hỏi các môn đệ
của Ngài cũng một hành vi tin tưởng và phó thác như vậy, cũng như những ai mà Ngài chữa lành về phương diện thể xác hay luân lý: « Hãy đi và đừng phạm tội nữa », hay « Hãy đi, đức tin của con đã cứu con », hoặc « hãy chỗi dậy và đi ! ».
2. Lời Hứa (St 12: 2-4):
“Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn…Ta sẽ cho tên tuổi ngươi sẽ lẫy lừng…”
Đây là lời hứa đầu tiên và sẽ còn tiếp tục nhắc đi nhắc lại trong suốt truyện dài nhiều tập của tổ phụ Áp-ra-ham, nhưng những gì hứa ban luôn luôn mâu thuẫn với thực tế trước mắt. Thiên Chúa loan báo cho cụ già không con nầy, lãnh tụ của một bộ tộc du mục nhỏ bé nầy, một tương lai huy hoàng rực rỡ hoàn toàn không cân xứng với những gì mà ông có trong hiện tại: một kẻ lang bạt lên đường đến một miền đất xa lạ.
Ông Áp-ra-ham là vị tổ phụ mà truyền thống Ít-ra-en đã luôn luôn xem ông là cha của Lời Hứa, lời hứa nầy đã làm cho ông trở thành một dân riêng, một dân mà Thiên Chúa ưu ái. Chính Lời Hứa nầy mà ông sống.
Biểu thức đầu tiên này của Lời Hứa đã được biên soạn dưới triều đại vua Sa-lô-mon. Đó là thời kỳ hoàng kim; thể chế vương quyền Ít-ra-en thụ hưởng một uy thế lẫy lừng khắp thiên hạ. Làm thế nào hiện tại huy hoàng này đã không gợi nhớ về một quá khứ xa xưa, bởi vì hiện tại làm chứng cho việc Thiên Chúa thực hiện những lời hứa của Ngài nhỉ? “Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn… Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng…”
3. Chúc phúc.
Lời chúc phúc là dấu chỉ hữu hình của tấm lòng nhân hậu Thiên Chúa, nhưng cũng diễn tả tính hiệu quả và nhắc nhớ ý muốn cứu độ hoàn vũ của Thiên Chúa. Những lời chúc phúc không bị giới hạn vào con người Áp-ra-ham. Chính ông cũng sẽ là một dấu chỉ, nhưng lại là một dấu chỉ mâu thuẫn: “Ta sẽ chức lành cho những ai chúc lành cho người; ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa.” Tuy nhiên Thiên Chúa khẳng định rằng nhờ ông mà muôn dân tộc sẽ được chúc phúc.
Lời chúc phúc nầy mở ra những viễn cảnh còn rộng lớn hơn. Theo phân loại của sách Sáng Thế, ông Áp-ra-ham được định vị trong hàng hậu duệ của Sêm, vì thế phân biệt với hậu duệ của Kham và Gia-phết. Tuy nhiên, lời chúc phúc mà ông cưu mang và qua trung gian của ông, sẽ trải rộng đến hết mọi gia tộc trên mặt đất. Nếu Thiên Chúa đã tuyển chọn một con người, một dân tộc, trong khuôn mẫu lịch sử để truyền đạt Giao Ước, lời hứa và lời chúc phúc, thì muôn dân muôn nước trên mặt đất, ngay từ khởi thủy của lịch sử cứu độ, đã là những người thụ hưởng những ân phúc nầy rồi. Vì thế, trong lời chúc phúc nầy vốn hàm chứa chiều kích hoàn vũ của Kitô giáo rồi.
3. Viễn cảnh thần học:
Tác giả Gia-vít là người đã suy niệm về sự cao cả nguyên thủy của con người và sự thất bại mà tội lỗi đã gây ra (St 2: 4-19). Cũng chính ông đã nhắc nhớ tội huynh đệ tương tàn của Ca-in, lụt Đại Hồng Thủy, tháp Ba-ben, nghĩa là nhân loại càng lúc càng lún sâu trong sự ác, và là đối tượng của những trừng phạt và chúc dữ của Thiên Chúa.
Vào lúc ông Áp-ra-ham vâng phục Thiên Chúa mà ra đi, có điều gì đó thay đổi trong lịch sử của nhân loại. Không gì ngoài những lời chúc phúc: “Ta sẽ chúc phúc cho ngươi… Ngươi sẽ là một mối phúc lành…”. Trong tất cả kỳ tích của vị tổ phụ này, tác giả nêu bật ông Áp-ra-ham như một phản đề của nguyên tổ A-đam. Nguyên tổ A-đam đã nghi ngờ và đã bất tuân, trái lại tổ phụ A-bra-ham là con người của niềm tin và tuân phục. Chính từ nguyên tổ A-đam mà sự ác xâm nhập nhân loại và kéo theo lời chúc dữ của Thiên Chúa. Khởi đi từ tổ phụ Áp-ra-ham, nhân loại được mời gọi sống niềm hy vọng. Chắc chắn, qua vị tổ phụ này, Thiên Chúa chọn cho mình một dân tộc, nhưng sự chọn lựa nầy, thay vì giới hạn ý định của Ngài, trái lại loan báo chiều kích hoàn vũ của ơn cứu độ : « Nhờ ngươi, mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc lành » .
Tổ phụ A-bra-ham sống trên đất Ca-na-an như người du mục của Thiên Chúa và ông sẽ không ngừng là người du mục nầy, trong khi tìm kiếm một nơi cầu nguyện : Xi-khem, Bê-then…
Từ cuộc sống du mục nầy, tác giả thư gởi tín hữu Do thái đã rút ra tầm mức tâm linh : “Nhờ đức tin, ông A-bra-ham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa như một nơi đất khách… vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng…Vì thế, do một người duy nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được.” (Dt 11: 8-12).
BÀI ĐỌC II (2 Timothy 1:8-10)
Thư thứ hai gởi cho Ti-mô- thê là bút tích cuối cùng của thánh Phao-lô. Lúc đó, thánh nhân đang bị giam cầm ở Rô-ma ; và cảnh giam cầm rất nghiêm nhặt, thánh nhân « phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi» (2Tm 2 : 9). Thánh nhân biết rất rõ số phận đang chờ đợi ngài : « Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính. » (2Tm 4 : 6-8).
1. Ti-mô-thê :
Ti-mô-thê là người đồng sự thâm niên và rất trung thành của thánh Phao-lô. Thánh nhân đã lưu ý đến ông vào chuyến hành trình truyền giáo thứ hai của ngài khi ngài đến Lýt-ra, miền Tiểu Á vào năm 46 hay 47 (Cv 16 : 1-3).
Ông Ti-mô-thê, cha là người Hy lạp, còn mẹ là người Do thái đã theo Kitô giáo, đã được mẹ ông : bà Êu-ni-kê, và bà ngoại của ông : bà cụ Lô-ít, dạy dỗ, vì thế ông đã có lòng tôn kính Kinh Thánh và có một vốn liếng kiến thức sâu xa về Kinh Thánh.
Hai người đã cộng tác với nhau vô cùng thân thiết đến mức sáu bức thư của thánh Phao-lô đều có Ti-mô-thê là người đồng gởi, có thể ông đã biên soạn vài đoạn. Thánh Phao-lô giao phó cho ông Ti-mô-thê Giáo Đoàn Ê-phê-sô để đảm bảo công việc tông đồ được tiếp tục, vì ông là người đáng tin cậy. Thánh Phao-lô cũng đã bổ nhiệm ông Ti-tô ở Crète như vậy. Vì thế, các thư gởi cho ông Ti-mô-thê và ông Ti-tô được gợi « Các Thư Mục Vụ », vì trong những thư này, vị Tông Đồ cho các vị kế nghiệp ngài những huấn thị của ngài.
2. Lý do của bức thư :
Vào lúc đó, Giáo Đoàn Ê-phê-sô gặp phải những khó khăn do những biện luận (thánh Phao-lô kể ra sau đó) dễ nẩy sinh lạc giáo. Đối diện với những trào lưu tư tưởng, một thái độ duy nhất, rất vững chắc : “loan báo Tin Mừng”. Thánh nhân lập lại hai lần diễn ngữ này. Thánh nhân khẩn khoản nhắc nhở cho ông Ti-mô-thê rằng lời rao giảng của ông, dù thế nào đi nữa, đừng để bị ảnh hưởng bởi những học thuyết thịnh hành vào lúc đó. Tin Mừng không thể nào bị xuyên tạc bóp méo đi được.
3. Tính hiệu quả của sự đau khổ :
Để lời khích lệ mình có kết quả, thánh nhân trước tiên nhắc nhở tính hiệu quả của sự đau khổ. Ông Ti-mô-thê chịu đau khổ. Thánh Phao-lô cũng chịu đau khổ trong xiềng xích. Thánh Phao-lô nói với người môn đệ thân yêu của mình : « Hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng». Sự đau khổ nầy sẽ làm cho lời công bố của anh sinh hoa kết trái. Lời mời gọi nầy nhắc nhớ đến lời dạy của thánh nhân trong thư gởi cho Giáo Đoàn Cô-lô-sê : «Những gian nan thử thách Đức Giê-su còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh. » (Colossians 1:24).
4. Ơn gọi tông đồ :
Tiếp đó, thánh nhân nhắc nhở ông Ti-mô-thê về sự cao cả của ơn gọi tông đồ, thuần túy Thiên Ân, không có liên hệ gì với « công kia việc nọ ta làm ». Những lời nầy âm vang bài đọc I về ơn gọi của tổ phụ Áp-ra-ham. Chúng ta đừng ngạc nhiên khi khám phá ở đây một đạo lý đi đôi với đạo lý về ơn cứu độ bởi đức tin, chứ không bởi công trạng. Chúng ta đang ở trong cùng một dòng tư tưởng. Chúng ta cảm nhận rằng đây là niềm xác tin mà thánh nhân đã sống : chính ngài, xưa kia là một Biệt phái, thành tâm thiện chí với những việc lành phúc đức của mình, đã được Thiên Chúa chọn làm Tông Đồ của Ngài một cách nhưng không.
5. Sự chiến thắng của Đức Kitô Phục Sinh :
Sau cùng, thánh nhân khuyên ông Ti-mô-thê hãy vững tin vào những lời hứa ban “phúc trường sinh bất tử”, bao gồm cuộc khải hoàn phục sinh của Đức Kitô. Đó chính là sứ điệp mà ông phải loan báo. Kế hoạch này Thiên Chúa đã dự định từ muôn thuở được hiển thị qua mầu nhiệm Nhập Thể và Phục Sinh của Đức Giê-su.
Trong những bức thư khác của thánh Phao-lô, chúng ta gặp thấy những diễn ngữ tương tự ; chắc chắn trong đoạn thư nầy, nhờ mạch văn, những diễn ngữ nầy có mức độ chính xác hơn. Vì ở giữa những đe dọa lạc thuyết trong lòng Giáo Đoàn Ê-phê-sô, có những quan niệm sai lạc về mầu nhiệm Phục Sinh. Vị sứ đồ ra sức gìn giữ cho đến hơi thở cuối cùng làm thế nào sứ điệp Tin Mừng được thuần khiết.
Bức thư này không được gởi cho một cộng đoàn như phần lớn các thư khác của thánh Phao-lô, nhưng cho một cá nhân đảm nhận một chức vụ đặc thù. Rõ ràng phải lưu ý đến điều nầy trong bản văn. Tuy nhiên, đoạn trích dẫn nầy mang lấy một tầm mức phổ quát hơn, vì lẽ nó có thể tách biệt ra khỏi mạch văn và có thể được hiểu như được gởi cho mọi người Kitô hữu. Mỗi người Kitô hữu là chứng nhân cho Đức Kitô và vì thế phải để cho mình bị chất vấn bởi lời căn dặn khẩn thiết của thánh Phao-lô trong đoạn thư nầy. Như Karl Gatzweiler nhận định: “Không bản văn nào thích hợp cho việc nuôi dưỡng sứ mạng loan báo Tin Mừng của chúng ta hơn bản văn nầy. Nó quy chiếu chúng ta đến điều cốt yếu. Phải rao giảng Đức Giê-su Kitô, Đấng tỏ mình ra là vị Thiên Chúa cứu độ. Phải loan báo Tin Mừng về sự Phục Sinh của Ngài, Đấng chiến thắng sự chết và mở lối vào cuộc sống thần linh. Ngoài ra, bản văn nầy nhắc nhở cho mọi người Kitô hữu ơn gọi làm chứng nhân của họ, họ phải thực thi vai trò chứng nhân của mình không chút ngần ngại, với lòng can đảm và lạc quan, bất chấp những khó khăn. Vì Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (trích từ “Parole sur le chemin”, tr. 52).
TIN MỪNG (Matthew 17:1-9)
Bài tường thuật về biến cố Biến Hình là một trong những bài tường thuật Tin Mừng chất nặng mầu nhiệm nhất, nhưng cũng một trong những bài tường thuật phong phú nhất về giáo huấn. Cả ba Tin Mừng Nhất lãm đều tường thuật biến cố nầy và đều đặt vào trong bối cảnh vài ngày sau lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô và lời công bố đầu tiên về cuộc Thương Khó của Đức Giê-su. Đức Giê-su đã hỏi các tông đồ của Ngài : « Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ? » Thánh Phê-rô đáp : « Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống». Nghĩ rằng giây phút đã đến để mặc khải Ngài là Đấng Mê-si-a như thế nào, Đức Giê-su loan báo cuộc Thương Khó của Ngài. Thánh Phê-rô không thể nào dung hòa được một viễn cảnh như thế với lời khẳng định mà ông vừa mới tuyên xưng, vì thế ông đã phật ý. Biến cố Biến Hình mang đến một câu trả lời.
Ở đây chúng ta sẽ khảo sát câu chuyện dưới hai khía cạnh: biến cố Biến Hình có ý nghĩa như thế nào đối với Đức Giê-su, và đối với các nhân chứng.
1. Biến cố Biến Hình đối với Đức Giê-su :
Biến cố Biến Hình là một nâng đỡ tâm lý và tinh thần quan trọng nhất mà Đức Giê-su đã nhận được trong suốt sứ vụ của Ngài. Đức Giê-su trong thân phận con người trên con đường tiến về cuộc Tử Nạn của Ngài, Chúa Cha mang đến cho Ngài một sự an ủi đặc biệt. Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su được đảm bảo rằng con đường đau khổ mà Ngài sắp trải qua, sẽ dẫn Ngài đến vinh quang, vinh quang mà Ngài đã sở hữu trước khi Nhập Thể, vinh quang nầy Ngài lấy lại trong một khoảng khắc thoáng qua.
– Thời điểm:
« Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem ông Phê-rô, cùng hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an đi riêng với mình lên một ngọn núi cao. »
Bài tường thuật bắt đầu với “Sáu ngày sau.” Diễn ngữ thời gian nầy, xét về phương diện văn chương, đóng vai trò chuyển tiếp vừa để giới thiệu bài tường thuật tiếp theo sau nhưng đồng thời cũng để nối kết với bài tường thuật đi trước. “Sáu ngày sau” nghĩa là sáu ngày sau khi thánh Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Cứu Độ, là Con Thiên Chúa (Matthew 16:16). Bài tường thuật đi trước kết thúc với một lời nói bí nhiệm của Đức Giê-su: “Thầy bảo thật anh em: trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết trước khi thấy Con Người đến hiển trị.” (Matthew 16:28). Vì thế, đa số các Giáo Phụ và các nhà chú giải nhận thấy trong câu nói bí nhiệm nầy lời loan báo trực tiếp đến biến cố Biến Hình, đặc biệt: “trong số người có mặt ở đây” có thể nhắm đến ba môn đệ được tuyển chọn làm chứng nhân cho biến cố Biến Hình nầy. Thêm nữa, “Sáu ngày sau” xem ra quy chiếu đến Xh 24: 16: “Vinh quang Đức Chúa ngự trên núi Xi-nai và mây bao phủ núi sáu ngày. Đến ngày thứ bảy, từ giữa đám mây, Người gọi ông Mô-sê”. Chính ở trên núi cao nơi tách biệt nầy mà Đức Giê-su, Mô-sê mới, Đấng giải phóng dân Ngài, dẫn ba môn đệ được tuyển chọn, những người sau nầy cũng sẽ tham dự vào lời cầu nguyện của Đức Giê-su trong vườn Cây Dầu (Matthew 26:37).
Vì thế, “Xét theo văn mạch, thì cuộc biến hình có mục đích cho các môn đệ ưu ái thấy trước Vinh quang của ngày sau hết, vinh quang nay đang tập trung trong con người của Đức Giê-su đang sống thường ngày với họ. Thiên Chúa phán với các môn đệ đầy sợ hãi rằng họ có thể và phải nghe cùng vâng lời, tín thác cùng đi theo Đức Giê-su trên đường dẫn tới Giê-su-sa-lem, tiến đến vinh quang bằng thập giá” (Guillemette, L’Evangile de Matthew, 195).
Tại sao Đức Giê-su phải nhọc công leo lên ngọn núi cao, đến nơi đồi núi hoang vắng nầy ? Thánh Lu-ca hé cho chúng ta thấy câu trả lời : « Ngài lên núi để cầu nguyện. » (Lc 9 : 29). Theo truyền thống Cựu ước, “núi” là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa và nơi Thiên Chúa bày tỏ mình ra. Vì thế, việc núi không được nêu tên không phải là không có chủ ý, bởi vì, « trên ngọn núi cao » : chi tiết không thuộc trật tự địa lý nhưng tâm linh. Trong vài giây phút nữa, ngọn núi nầy sẽ mang dáng dấp của núi Xi-nai, nơi các môn đệ chứng kiến cuộc biến hình vinh hiển của Đức Giê-su và cuộc thần hiện.
– Vinh quang của Đức Giê-su :
« Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. »
Thánh Mát-thêu mô tả cuộc biến đổi hình dạng của Đức Giê-su như con người rạng ngời của Ngài, trong khi thánh Lu-ca đặt sự biến đổi hình dạng nầy trong mối tương quan tăng dần của lời cầu nguyện mà Ngài thân thưa với Cha của Ngài. Biến cố Biến Hình nầy mặc khải rằng con người xác thịt của Ngài được liên kết với chính Hữu Thể Thiên Chúa, có nghĩa, kể từ đây, cái chết không có toàn quyền trên thân xác của Ngài; theo một cách nào đó, biến cố Biến Hình là một sự tham dự trước vinh quang Phục Sinh của Ngài.
– Ông Mô-sê và ông Ê-li-a :
« Và bỗng ba môn đệ thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người».
Chính cũng trên một ngọn núi này (Xi-nai, Khô-rếp) mà ông Mô-sê và ông Ê-li-a đã lần lượt gặp Thiên Chúa. Trong biến cố Biến Hình nầy, sự hiện diện của hai ông là một bảo lãnh tuyệt vời cho tước vị Mê-si-a của Đức Giê-su, bởi vì cả hai nhân vật nầy được xem như tiền hô của Đấng Mê-si-a : ông Mô-sê đã loan báo rằng một vị ngôn sứ vĩ đại sẽ đến, lời của Đấng ấy sẽ là lời của chính Thiên Chúa (Đnl 18 : 18) ; còn ông Ê-li-a, theo truyền thống, phải trở lại để chuẩn bị cho việc Đấng Mê-si-a ngự đến.
Hơn nữa, hai nhân vật nầy hiện diện bên cạnh Đức Giê-su vinh hiển, không chỉ như biểu tượng của Lề Luật và Ngôn Sứ, nhưng cũng như những người trung gian tuyệt mức của Giao-Ước. Như vậy, họ đại diện bước khởi đầu và điểm chung cuộc của Lịch Sử Cứu Độ được hoàn thành nơi Đức Giê-su. Vì thế, biến cố Biến Hình nhấn mạnh mối liên hệ giữa Cựu và Tân Ước.
Bài tường thuật của Lu-ca nói với chúng ta rằng hai ông Mô-sê và Ê-li-a đàm đạo với Đức Giê-su về « cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem » (Lc 9 : 31). Từ ngữ « xuất hành » nhắc nhớ đến cuộc hành trình gian nan nhất của dân Ít-ra-en : ra khỏi đất Ai-cập và lang thang trong hoang địa. Cuộc hành trình ấy đòi hỏi dân Thiên Chúa hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng dẫn đưa họ đến Đất Hứa. Với một niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, Đức Giê-su cũng dấn thân vào một cuộc hành trình gian nan nhất, một cuộc hành trình đến thập giá, nhưng cũng là cuộc hành trình đến vinh quang.
2. Biến cố Biến Hình đối với các nhân chứng :
Cuộc Biến Hình chỉ có ba nhân chứng : Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an. Trước đây, cũng chính ba môn đệ nầy được Đức Giê-su cho phép chứng kiến việc Ngài phục sinh con gái ông Gia-ia (Mc 5 : 37). Cũng chính ba môn đệ nầy mà sau này Đức Giê-su dẫn theo với Ngài trong vườn Cây Dầu ở đó họ sẽ là những nhân chứng cơn hấp hối của Ngài (Matthew 26:37). Trước đây trong việc Phục Sinh con gái của ông Gia-ia, ba môn đệ nầy chứng kiến quyền năng của Ngài trên cả sự chết (Mc 5 : 37) và nay trong cuộc Biến Hình vinh hiển nầy, họ còn nghe Chúa Cha minh chứng về Đức Giê-su (Matthew 17:5), để rồi sau nầy trong cuộc Khổ Nạn của Ngài, họ có đủ nghị lực chịu đựng và tin tưởng khi thấy Thầy mình phải chịu nhục mạ, khổ hình.
Việc thánh Phê-rô có mặt trong biến cố Biến Hình rất quan trọng, bởi vì ông gặp thấy ở đây sự cũng cố cho lời tuyên xưng trực giác của ông ở Xê-da-rê : « Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống » (Matthew 16:16). Mặt khác, ông chứng kiến một Đức Giê-su vinh hiển thay thế cho hình ảnh về một Đấng Mê-si-a chịu đau khổ mà theo quan điểm của ông, ông không thể nào chấp nhận được. Vị lãnh tụ của các Tông Đồ sau nầy sẽ đảm nhận một công việc khó khăn là rao giảng một Đức Kitô bị đóng đinh giữa hai tên gian phi, lúc nầy chiêm ngưỡng Đức Giê-su vinh hiển, ở giữa hai nhân vật nổi tiếng nhất của lịch sử Ít-ra-en. Vì thế, cuộc Biến Hình là phản đề của đồi Can-vê. Như vậy, niềm tin, trên đó tất cả niềm tin của Giáo Hội dựa vào, được đặt nền móng ở nơi biến cố Biến Hình này.
Thánh Gio-an, người môn đệ trung thành, sẽ đi cho đến cùng và sẽ chiêm ngắm một thân xác bầm dập rách nát không còn hình tượng người của Đấng bị đóng đinh trên khổ giá, chính ông sẽ viết trong Tựa Ngôn Tin Mừng của mình : « Chúng tôi đã thấy vinh quang của Ngài…Ngài là ánh sáng, ánh sáng thật…đầy tràn ân sủng và sự thật… » Ẩn hiện sau Tựa Ngôn nầy là bức tranh về biến cố Biến Hình. Còn Gia-cô-bê là vị Tông Đồ đầu tiên chết vì niềm tin của mình.
– Phản ứng của Phê-rô:
Trong chương nầy, như trong những chương trước đây, thánh Mát-thêu nêu bật nhân vật Phê-rô. Trước đây, chỉ mình ông Phê-rô tuyên xưng niềm tin vào Đức Giê-su ở Xê-da-rê, và chỉ mình ông bày tỏ nổi bất bình khi Thầy mình loan báo cuộc Tử Nạn. Trong câu chuyện nầy, ông cũng là người duy nhất phản ứng. Vốn bản tính nhiệt thành, năng nổ, nghĩ sao thì nói vậy, ông Phê-rô muốn dừng thời gian và hoạt cảnh nầy lại khi đề nghị dựng ba lều : một cho Đức Giê-su, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a. Khi phát biểu ý kiến như vậy, ông không nghĩ gì đến mình và các bạn đồng môn của mình. Tuy nhiên, có thể ông nghĩ đến ý nghĩa của ngày lễ Lều, ngày lễ tưởng niệm các chi tộc Ít-ra-en đã dựng lều trong hoang địa trước khi vào Đất Hứa : biểu tượng cho niềm mong đợi thời Mê-si-a. Theo truyền thống Do thái, vào thời sau hết Thiên Chúa sẽ ở giữa dân Ngài (Ed 37 :27 ; Hosea 12:10) trong lều vinh quang của Ngài, còn dân chúng sẽ dựng lều quanh Đấng Mê-si-a của họ (Galatians 1:14) và các dấu lạ thời Xuất Hành sẽ tái diễn. Vì thế, qua phản ứng nầy, có thể trong tiềm thức, ông Phê-rô chứng nhận rằng mình luôn luôn tin vào sự đăng quang vinh hiển của Đấng Mê-si-a. Khi đề nghị dựng ba lều, ông nghĩ rằng thời sau hết đã đến và cho rằng đã đến lúc thiết lập thiên đàng ở trên trái đất ngỏ hầu cuộc thần hiện trong một ngày sẽ kéo dài mãi mãi.
– Cuộc Thần Hiện :
« Ông Phê-rô còn đang nói, chợt có một đám mây sáng ngời bay đến phủ bóng trên các ông ».
Biết bao lần trong Cựu Ước, đám mây sáng ngời vừa bày tỏ nhưng đồng thời che phủ sự hiện diện của Thiên Chúa trước mắt của phàm nhân, vì thế, đám mây sáng ngời là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa (Xh 40 : 34-35 ; 1V 8 : 10-12 ; Ed 10 : 3-4 ; Tv 18 : 12). Một giọng nói vang lên như vào ngày Đức Giê-su chịu phép rửa bởi Gio-an Tẩy giả. Tuy nhiên, ở đây không còn là « các tầng trời mở ra và Thần Khí ngự xuống trên Người », nhưng « dung mạo Ngài chói lọi như mặt trời, và y phục Ngài trở nên trắng tinh như ánh sáng », nghĩa là, ở nơi Đức Giê-su Thực Tại Thiên Quốc, hay chính Thiên Chúa đích thân hiện diện. Lời công bố tước vị « Con Thiên Chúa » của Đức Giê-su không chỉ nhấn mạnh sự tuyển chọn đặc sủng, nhưng cũng nhắm đến tầm quan trọng của sứ điệp : « Các ngươi hãy vâng nghe lời Người ». Huấn lệnh nầy xem ra nhắc nhớ lời hứa của Đức Chúa với dân Ngài qua ông Mô-sê: từ giữa họ, Ngài sẽ cho xuất hiện một vị ngôn sứ như Mô-sê, Ngài sẽ đặt lời Ngài trong miệng của Đấng ấy, vì thế « Các ngươi hãy nghe vị ấy » (Đnl 18 : 15). Vì thế, Đức Giê-su là Ngôi Lời Thiên Chúa.
Phải lưu ý rằng đám mây bao phủ ba vị Tông Đồ, như vậy hiệp nhất họ với Đức Giê-su, liên kết họ nên một với mầu nhiệm của Ngài, trong mặc khải kín nhiệm mà họ không được hé lộ ra cho bất cứ ai trước khi Ngài sống lại, như Đức Giê-su truyền lệnh cho họ. Khi đám mây biến mất, các Tông Đồ không còn thấy ai ngoài chỉ một mình Đức Giê-su. Từ đây, Đức Giê-su hiện thân cho Lề Luật và Các Ngôn Sứ.
– « Chỗi dậy đi » :
Các tông đồ đã thấy cử chỉ nầy rồi và đã nghe những lời nầy rồi, đó là vào lúc Ngài phục sinh con gái của ông Gia-ia. Đức Giê-su dùng cũng một động từ : « Chỗi dậy » để chỉ biến cố Phục Sinh sau nầy của Ngài : « Đừng nói cho ai hay điều anh em vừa thấy, cho đến khi Con Người chỗi dậy từ cõi chết ».
Vào lúc nầy, các ông không thể nào nắm bắt được ý nghĩa của lời căn dặn nầy. Sau nầy, các ông sẽ nhớ lại và hiểu tại sao Đức Giê-su đã cho họ chứng kiến cuộc phục sinh con gái của ông Gia-ia, tiếp đó, cuộc Biến Hình của Ngài. Họ sẽ công bố mối liên hệ giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Biến Hình. Thánh Gioan, một trong ba nhân chứng này, sẽ diễn tả rõ ràng : « Hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa ; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy » (1Galatians 3:2). Thánh Phao-lô cũng viết : « Đức Giê-su sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta để nên đồng hình đồng dạng với thân xác vinh hiển của Người » (Pl 3 : 21).
Lm Ignatiô Hồ Thông