Ý hướng của Phụng vụ Chúa nhật III và IV Mùa Chay là Bí Tích Rửa Tội: các bài đọc được chọn lựa nhằm chuẩn bị tân tòng đón nhận Bí Tích Rửa Tội vào đêm vọng Phục Sinh. Như vậy, vào Chúa Nhật III Mùa Chay nầy, chủ đề nổi bật là “nước hằng sống”: nguồn mạch ơn cứu độ.
Xh 17: 3-7
Suốt cuộc hành trình trong hoang địa, dân Do thái phải chịu cảnh khát nước. Thiên Chúa đã ban cho họ nước mát trong tuôn trào từ tảng đá. Qua đó, Thiên Chúa tỏ cho dân Ngài biết rằng Ngài vừa Đá Tảng vừa Nguồn Mạch luôn luôn tuôn trào sự sống và ơn cứu độ.
Romans 5:1-2; 5-8
Thánh Phao-lô nói cho Giáo Đoàn Rô-ma biết rằng chính nhờ Đức Tin mà họ trở nên công chính và hưởng được niềm hy vọng lớn lao, đó là một ngày kia sẽ được dự phần vào vinh quang của chính Thiên Chúa. Đức cậy nầy có một nền tảng vững chắc bởi vì nó được bám rễ sâu trong tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi.
Galatians 4:5-42
Tin Mừng tường thuật cuộc đối thoại của Đức Giê-su với người phụ nữ Sa-ma-ri ở bên bờ giếng Gia-cóp. Đức Giê-su tự đồng hóa mình với nguồn nước hằng sống đem lại sự sống đời đời.
BÀI ĐỌC I (Xh 17: 3-7)
Nhan đề của sách Xuất Hành tự nó nói lên nội dung của sách: “cuộc xuất hành khỏi đất Ai-cập”. Chương 17 nầy tường thuật một loạt những thử thách mà dân Do thái đã trải qua trong suốt cuộc hành trình băng qua hoang địa: cái đói, cái khát, chiến tranh, từ đó họ kêu trách, gây gỗ và nổi loạn.
Đoạn văn được trích dẫn hôm nay tường thuật dân Do thái trải qua cuộc thử thách về cái khát, và từ đó nẩy sinh nghi vực Thiên Chúa có thực sự ở giữa dân Ngài hay không. Đối lại: Thiên Chúa đáp trả. Vì thế biến cố nầy bao gồm hai bài học.
– Thiên Chúa là Đấng ban nước hằng sống; Ngài là Thiên Chúa Cứu Độ.
– Đức tin không phải thất vọng bao giờ.
1. Thiên Chúa, Đấng ban nước hằng sống:
“Ông Mô-sê đập cây gậy vào tảng đá. Từ tảng đá, nước sẽ chảy tràn ra cho dân uống.”
Đây không là một phép lạ từ hư không (ex nihilo). Chính Đức Giê-su cũng sẽ không thực hiện bất kỳ phép lạ từ hư không nào. Ngài luôn luôn sử dụng chất liệu tự nhiên: từ nước ở Ca-na, Ngài biến thành rượu; từ năm chiếc bánh và hai con cá Ngài nuôi một đám đông dân chúng. Cũng vậy, trong trường hợp của ông Mô-sê, từ đá tảng Thiên Chúa cho nước mát trong chảy tràn ra cho dân chúng uống.
Cây gậy mà ông Mô-sê sử dụng là cây gậy mà Thiên Chúa đã ban cho ông để chiến thắng chiếc đũa thần của các nhà phù thủy của Pha-ra-ô. Việc cây gậy thần hay chiếc đũa thần làm nên những điềm thiêng dấu lạ chẳng có gì đáng ngạc nhiên đối với chuyện tích nhân gian, nhưng điều quan trọng chính là: Thiên Chúa, qua người đại diện của Ngài, cho thấy quyền năng của Ngài hơn các quyền năng của các vị thần linh Ai-cập, qua các vị pháp sư này. Quả thật, Cựu Ước còn giữ lại những chuyện tích dân gian về một cây gậy, một chiếc đũa, một nhành lá, một cây lao, thậm chí những mũi tên, điều nầy chứng nhận tính cổ xưa của những văn bản nầy (Cf. Ds 17: 16; Gs 8: 18-19; 2V 13: 18-19, vân vân). Thật ý nghĩa biết bao trong Ds 20: 7-8, câu chuyện nầy được đọc lại, và thay vì cây gậy của ông Mô-sê, chính là “lời của ông” khiến nước phun ra từ tảng đá: “Đức Chúa phán với ông Mô-sê: ‘Hãy cầm lấy cây gậy, và cùng với A-ha-ron, anh ngươi, triệu tập cộng đồng lại. Trước mặt chúng, các ngươi sẽ nói với tảng đá và chúng sẽ cho nước…”.
Ân ban nước trong sa mạc Rơ-phi-đim được ghi trong sách Xuất Hành nầy là một hành động cứu độ. Thiên Chúa ban ơn cứu độ. Vì thế, trong Kinh Thánh, “nước” không chỉ là một yếu tố tự nhiên đảm bảo sự tồn tại, nhưng còn hổ trợ cho một chủ đề huyền nhiệm và biểu tượng: hình ảnh về sự sống tâm linh. “Hồn con khát Chúa như miền đất khô” (Tv 143: 6b) hay “Như nai rừng mong tìm về suối nước trong, hồn con cũng trong mong được gần Ngài, lạy Chúa.” (Tv 43: 2). Tảng đá phun trào nước ở Rơ-phi-lim mặc lấy cũng một ý nghĩa nầy. Truyền thống kinh sư chứng nhận điều đó, và nhất là truyền thống Palestine. Truyền thống nầy vang dội trong thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô: Cha ông chúng ta “cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Kitô” (1Cr 10: 4).
2. Nghi ngờ trong thử thách.
Ông Mô-sê đã phải hứng chịu cơn thịnh nộ của dân chúng. Họ sợ hãi trước một cái chết thảm khốc: “Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai cập để làm gì? Có phải để cho chúng tôi, con cái chúng tôi, và súc vật của chúng tôi bị chết khát hay không?” Đoạn, sự nghi ngờ trở thành lời nói phạm thượng: “Có Chúa ở giữa chúng tôi hay không?”
Trước cuộc nổi loạn của dân chúng, ông Mô-sê kinh hãi, ông kêu lên cùng Chúa: “Tôi Phải làm gì cho dân nầy bây giờ? Chỉ còn chút nữa là họ lấy đá ném chết tôi!”. Ông Mô-sê chấp nhận đánh cược niềm tin của mình; Thiên Chúa phục hồi uy tín cho ông trước mắt mọi người khi cho ông thực hiện ân ban của Ngài trước sự chứng kiến của một số kỳ mục mà ông dẫn theo đến tảng đá.
Chính nhờ niềm tin mà ông Mô-sê đã vượt qua cơn nguy khốn này. Ông đã tin rằng không gì mà Thiên Chúa không thể làm được. Hơn nữa, ông đặt trọn niềm tin tưởng vào lòng nhân hậu của Thiên Chúa, Đấng, bất chấp những cằn nhằn gây gỗ của dân Ngài, đã không từ chối ra tay cứu giúp họ. Đức tin không thể tương hợp với sự tuyệt vọng.
Việc dân Do thái thách thức và cằn nhằn gây gỗ ở Ma-xa và Mê-ri-ba được sách Đệ Nhị Luật nêu lên: “Anh em đừng thách thức Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, như anh em đã thách thức ở Ma-xa” (Đnl 6: 16). Trong bài tường thuật về việc Đức Giê-su chịu thử thách trong hoang địa, Đức Giê-su đáp lại cơn cám dỗ thứ hai của Xa-tan cũng bằng chính những lời nầy: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.” (Matthew 4:7).
BÀI ĐỌC II (Romans 5:1-2,5-8)
Thần học về ơn công chính hóa là phần cốt yếu thư gởi các tín hữu Rô-ma. Trong phần đạo lý (1: 16-11: 36), thánh Phao-lô nói cho chúng ta rằng chúng ta được trở nên công chính nhờ tin vào Đức Kitô. Phần đạo lý nầy được khai triển thành hai phần: phần thứ nhất (1: 18-4: 25): thánh Phao-lô chứng minh rằng ơn công chính hóa đạt được nhờ đức tin; phần thứ hai (5: 1-11: 36): thánh nhân sẽ bàn đến những hoa trái mà ơn công chính hóa sản sinh ở nơi những ai được trở nên công chính.
Đoạn thư mà chúng ta trích đọc hôm nay là phần đầu chương 5, chương đóng chức năng như bản lề của phần đạo lý này. Trong các chương trước, thánh Phao-lô đã bày tỏ cho chúng ta nhu cầu được cứu độ và cần thiết được ơn công chính nhờ đức tin. Bây giờ thánh nhân tiếp tục giải thích những hoa trái của đời sống mới. Hoa quả đầu tiên là “sống hòa hợp với Thiên Chúa” và “niềm hy vọng vào vinh quang tương lai”.
1. Sống hòa hợp với Thiên Chúa (5: 1-2):
Được trở nên công chính, con người lại có thể sống trong mối thân tình với Thiên Chúa. Tội lỗi kéo theo sự thù địch giữa con người và Thiên Chúa. Ơn công chính hóa nghĩa là chấm dứt tình trạng thù địch nầy. Con người được giao hòa với Đấng Tạo Hóa của mình. Những mối liên hệ giữa thụ tạo và Tạo Hóa được bình thường hóa. Đức Giê-su Ki-tô là Đấng trung gian của cuộc sống hoà hợp nầy. Để nhắc lại vai trò trung gian của Đức Giê-su, thánh Phao-lô cậy nhờ đến hình ảnh tế tự. Như một người tiến vào cung thánh nhờ chu toàn vài điều kiện, cũng vậy, hiện nay Đức Giê-su, Đấng cứu độ chúng ta, mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa.
Vì thế, ân sủng không gì khác hơn là hành động của Thiên Chúa, nhờ đó con người được thụ hưởng ân nầy đến ân khác. Con người chỉ có thể tự hào và hoan hĩ vì những gì Thiên Chúa đã làm cho mình. Cuộc sống hòa hợp với Thiên Chúa mà con người được thụ hưởng hôm nay bảo đảm cho họ rằng ngày mai họ sẽ dự phần vào vinh quang Thiên Chúa, vào chính cuộc sống của Thiên Chúa. Ân ban bình an là tham dự trước vinh quang thiên quốc, ân ban nầy là bảo chứng cho cuộc sống thần linh mà một ngày kia họ sẽ thụ hưởng viên mãn.
2. Niềm hy vọng vào vinh quang tương lai (5: 5-8):
Thánh Phao-lô nêu lên hai lý do để khẳng định rằng niềm hy vọng vào vinh quang tương lai là có cơ sở vững chắc:
– Ân ban Thánh Thần (5: 3-5):
Được công chính hóa, chúng ta không chỉ vui mừng vì được sống hòa hợp với Thiên Chúa hiện nay và hy vọng về phần thưởng ngày mai, nhưng dẫu phải gặp thấy niềm hoan hỉ trong những gian truân thử thách, vì “ai quen gặp gian truân thì quen chịu đựng; ai quen chịu đựng thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là người trung kiên, thì có quyền trông cậy.” (5: 4). Điều quan trọng nhất chính là Thiên Chúa đang hoạt động để dẫn đưa chúng ta đến cứu cánh mà Ngài dành sẵn cho chúng ta. “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta”.
– Hiến dâng Con Một của Người (5: 6-8):
Thánh Phao-lô nêu ra một bằng chứng khác để khẳng định rằng niềm cậy trông của chúng ta là có nền tảng vững chắc, đó là Đức Giê-su đã chết để cứu độ chúng ta. Tình yêu nầy còn lớn lao hơn, bởi vì thật khó gặp thấy một ai sẵn sàng hiến dâng mạng sống mình cho một người lương thiện, ấy vậy, Đức Giê-su đã chết cho chúng ta trong khi chúng ta còn là hạng phản nghịch cùng Thiên Chúa. Như vậy, không chỉ Con, nhưng cũng là Cha đã bày tỏ tình yêu của mình trong cái chết của Đức Ki-tô.
TIN MỪNG (Galatians 4:5-42)
Trên cuộc hành trình từ Giu-đê trở về miền Ga-li-lê, Đức Giê-su băng qua Sa-ma-ri. Đây là lộ trình ngắn nhất, nhưng không là lộ trình duy nhất, bởi vì, để tránh bất kỳ cuộc tiếp xúc với dân Sa-ma-ri, người Do thái thường đi vòng Sa-ma-ri băng qua thung lũng Gio-đan.
Có một mối thâm thù giữa hai dân tộc nầy (2V 17: 6, 24). Vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, sách Huấn ca viết: “Hồn tôi giận ghét hai dân tộc, còn dân thứ ba chẳng phải là một dân: Đó là bọn người sống trên núi Xê-ia, rồi người Phi-li-tinh, và đám dân ngu xuẩn ở vùng Xi-khem.” (Hc 50: 25-26). Vào thời Đức Giê-su, ai bị gọi là “người Sa-ma-ri” đó thật sự là một sự nhục mạ trầm trọng như “kẻ bị quỷ ám” (Ga 8: 48). Khi Đức Giê-su ca ngợi người Sa-ma-ri, ý định khẩu chiến chống lại người Do thái được bày tỏ rất rõ nét.
Đức Giê-su đến một thành xứ Sa-ma-ri, tên là Xy-kha, “Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng”. Thời gian gặp gỡ và đối thoại được xác định: “Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu,” tức khoảng 12 giờ trưa, đó là thời điểm nóng nhất trong ngày, vì thế nước uống sẽ tăng thêm giá trị hơn.
1. Cuộc đối thoại của Đức Giê-su với người phụ nữ Sa-ma-ri:
Cuộc đối thoại thực sự bắt đầu với câu 10, khi Đức Giê-su lợi dụng biểu tượng phong phú của nước để mời gọi chị khám phá căn tính của Ngài: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người đang nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống” (câu 10) và kết thúc với “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây” (câu 26); vì thế, các câu 7-9 chỉ là khúc dạo đầu, giới thiệu hai nhân vật chính của cuộc đối thoại: Đức Giê-su và người phụ nữ xứ Sa-ma-ri.
Những trao đổi trong câu chuyện giữa Đức Giê-su và người phụ nữ đề cập đến hai chủ đề quan trọng: nước hằng sống (4: 7-15) và việc thờ phượng đích thật (4: 20-26). Chen vào giữa hai chủ đề nầy là một cuộc trao đổi ngắn về đời tư của người phụ nữ (4: 16-19) như một nhịp cầu nối giữa hai chủ đề này.
– Nước hằng sống:
Phải nhấn mạnh ở đây rằng cuộc đối thoại phát xuất từ sáng kiến của Đức Giê-su (4: 7). Chính Ngài có sáng kiến bắt chuyện với người phụ nữ để dẫn đưa chị khám phá căn tính của Ngài: “Xin chị cho tôi xin chút nước uống”.
Người phụ nữ xứ Sa-ma-ri bày tỏ thái độ tức khắc: “Ông là người Do thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao”. Trong câu trả lời của mình, người phụ nữ nêu lên hai lý do để từ chối nói chuyện với Đức Giê-su, trước hết: mối thù truyền kiếp giữa hai dân tộc này như lời giải thích của người kể chuyện: “Quả thế, người Do thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri”; thứ hai: theo phong tục tập quán vào thời ấy, người phụ nữ không được nói chuyện với một người đàn ông, nhất ở nơi hoang vắng.
Nhưng Đức Giê-su muốn phá đổ bức tường ngăn cách giữa hai dân tộc này và giữa nam và nữ, khi mời gọi chị khám phá căn tính của người đang nói với chị: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: “Cho tôi chút nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống”. Trong câu trả lời của Ngài, Đức Giê-su hé mở cho người phụ nữ hiểu rằng Ngài là người được ký thác một bí nhiệm mà con người không biết. Lúc đó, thật là mâu thuẫn đến ngạc nhiên: người khách lạ mệt mỏi, khát nước, xin chị một chút nước uống để giải khát lại là người đề nghị cho chị nước hằng sống!
Đối với dân Do thái, sống trong môi trường bị bao quanh bởi sa mạc, nước là yếu tố cần thiết cho sự sống, sự phú túc ; vì thế, dân Cựu Ước gặp thấy ở nơi “nước hằng sống”, nghĩa là nước mát trong chảy ra tận nguồn, một hình ảnh rất đẹp để tuyên xưng niềm tin vào Đức Chúa, Đấng ban sự sống (Gr 2 : 13 ; 17 : 13). Đối với truyền thống kinh sư và minh triết, ân huệ lớn nhất mà Đức Chúa ban là Lề Luật đem lại sự sống, ơn cứu độ và khôn ngoan, lúc đó, “nước hằng sống” biểu tượng Lề Luật, Mặc Khải và Lời Thiên Chúa (Cn 13 : 14 ; 16 : 22 ; 18 : 4 ; Tv 1 : 3 ; x. Ga 17 : 7-8). Đối với truyền thống ngôn sứ, “nước hằng sống” là biểu tượng những ân ban của thời Mê-si-a (Dcr 14 : 8 ; Ed 47 : 1-12 ; Is 5 : 4 ; 12 : 3).
Đức Giê-su lợi dụng biểu tượng phong phú về “nước hằng sống” để mời gọi người phụ nữ khám phá căn tính của Đấng không chỉ là ân huệ Thiên Chúa ban, nhưng còn là Thiên Chúa đích thân, Đấng đến từ trên cao (Galatians 3:3), từ trời (Ga 3: 31), và mời gọi chị tiếp nhận lời của Ngài, lời đến từ nguồn mạch sự sống. Với câu trả lời nầy, vai trò của Đức Giê-su và của người phụ nữ đảo ngược: giếng ban nước uống vẫn ở đó, nhưng nhường chỗ cho sự hiện diện của Đức Giê-su, Đấng ban “nước hằng sống”, nghĩa là lời mặc khải đem lại sự sống. Cặp đối lập: “Ông, người Do thái” và “tôi, người phụ nữ Sa-ma-ri” vẫn còn đó, nhưng bị xóa nhòa bởi “ân huệ đích thân của Thiên Chúa,” cũng chính “Đấng ban cho.” Câu trả lời của Đức Giê-su ở thể điều kiện, nghĩa là lời đề nghị, hay lời mời gọi. Nếu chị chấp nhận điều kiện, lời hứa sẽ trở thành thực tại. Tuy nhiên, người phụ nữ chưa nắm bắt thực tại tinh thần của biểu tượng, vì thế chị vẫn cứ bám vào vẻ bên ngoài của người khách lạ nầy và vào thực tại vật chất của nước giếng nầy : “Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống ? Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này ? Chính người đã uống giếng nước này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy”.
Đây là phương pháp “ngộ nhận” của Tin Mừng Gioan, được dùng hai lần: trong cuộc đối thoại với người phụ nữ về “nước hằng sống”, và trong cuộc đối thoại với các môn đệ về “lương thực đích thật” Đây không nhằm nhấn mạnh sự chậm hiểu của người đối thoại, nhưng cốt giúp cho Chúa Giê-su khai triển sâu xa hơn điều Ngài muốn người đối thoại hiểu. Vì thế, Ngài xác định rõ ra sự khác biệt giữa nước mà Gia-cóp ban cho và nước mà Ngài ban cho : “Ai uống nước nầy, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”. Cách nói thứ nhất về nước mà Gia-cóp ban cho: « Ai uống nước này, sẽ lại khát » đã được sách Huấn ca sử dụng: “Ai ăn Ta sẽ còn đói, ai uống Ta sẽ còn khát” (Hc 24: 21) để diễn tả ai đã nếm lời Khôn Ngoan, sẽ ao ước luôn mãi. Cách nói thứ hai về nước mà Ngài ban cho: « Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa » đã được gặp thấy ở Isaiah 49:10-13 về viễn cảnh thời Mê-si-a và hoàn vũ: “Họ sẽ không còn đói và khát nữa”. Như vậy Đức Giê-su khẳng định rằng nước mà Ngài ban cho không thuộc trật tự vật chất, nhưng thuộc trật tự biểu tượng: Ngài tỏ mình ra như “ân huệ” tuyệt mức mà Thiên Chúa ban cho con người (Galatians 3:16-17). Khi gặp gỡ Ngài, người ta không đơn giản gặp gỡ bậc thầy dạy những lời khôn ngoan được rút ra từ Mặc Khải, nhưng chính nguồn Mặc Khải. Đức Giê-su là Mặc Khải đích thân (Galatians 1:14). Đó là lý do tại sao Ngài mời người đối thoại hãy tiếp nhận và sở hữu lời Ngài để lời Ngài trở nên nguồn sống đời đời trong lòng của mình.
– Đời tư của người phụ nữ:
Chủ đề « nước hằng sống » xem ra đến hồi kết thúc với lời đáp trả của chị: « Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước ». Như vậy, với lời đáp trả này, chị chấp nhận một sự hoán chuyển vai trò giữ người xin và người cho như lời đề nghị của Chúa Giê-su ngay từ đầu câu chuyện (3 : 10). Nhưng rõ ràng người phụ nữ này chưa đạt đến niềm tin vào Ngài như Chúa Giê-su muốn, vì thế Ngài muốn câu chuyện được tiếp tục để dẫn chị đi xa hơn nữa. Để thoát khỏi thế bế tắc, Đức Giê-su chứng tỏ cho chị thấy là Ngài biết mọi điều ẩn kín về chị như Ngài đã làm đối với ông Na-tha-na-en. Cho dù đã không đạt được lời tuyên xưng tròn đầy như Na-tha-na-en (1 : 49), chị nhận ra rằng người mới vén mở đời tư của chị phải là một ngôn sứ. Khởi đi từ đó, chị bắt đầu cởi mở tấm lòng mình cho Ngài. Như vậy phân đoạn này đóng vai trò chuyển tiếp giữa chủ đề « nước hằng sống » đi trước và chủ đề « thờ phượng đích thật » theo sau.
– Thờ phượng đích thật :
Bây giờ, người phụ nữ Sa-ma-ri này mới nhận ra ở nơi người Do thái này là một ngôn sứ : “Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ”, vì thế chị nêu lên với Ngài một vấn đề then chốt, vấn đề ám ảnh tâm thức tôn giáo của chị: chân lý thuộc về phía nào? Với tín đồ phụng thờ Thiên Chúa ở trên núi Ga-ri-zim hay với tín đồ phụng thờ Ngài ở Giê-ru-sa-lem? Câu trả lời của Chúa Giê-su là không người nầy kẻ kia, “nhưng đến giờ -và chính là lúc nầy – những người thờ phượng đích thật sẽ thờ phượng Chúa Cha theo thần khí và sự thật.”
Cụm từ “thần khí và sự thật” theo cách nói của Gioan: chữ thứ hai bổ túc nghĩa cho chữ thứ nhất, phải được hiểu là “Thần Khí sự thật”, tức là Đấng mà Đức Giê-su sẽ nói với các môn đệ trong bữa Tiệc Ly (Ga 14: 17; 15: 26; 16: 13) và là Đấng mà Ngài sẽ hứa ban cho họ sau khi Ngài sống lại (Ga 20: 22). Như vậy, thờ phượng đích thật là sự thờ phượng được nuôi dưỡng bằng Mặc Khải của Đức Giê-su dưới tác động của Thần Khí sự thật. Tác động của Thần khí sự thật cốt là làm cho sự thật của Đức Giê-su hiện diện trong chúng ta và giúp chúng ta hiểu biết đích thật về Ngài. Vì thế, thờ phượng đích thật không còn quy chiếu đến một đền thờ bằng đá, nhưng đến Mặc Khải của Chúa Giê-su dưới tác động của Chúa Thánh Thần, nhờ đó Chúa Cha đã bày tỏ tận mức tình yêu của Ngài cho nhân loại. Đó sẽ là thờ phượng đích thật, nét đặc trưng của thời đại mới.
Trên bình diện cấu trúc và ngữ nghĩa, câu trả lời của người phụ nữ : « tôi biết » ở 4 : 25) là lời đáp trả tương xứng cho lời đề nghị của Đức Giê-su ngay đầu câu chuyện : « nếu chị biết » ở 4 : 10. Như vậy cuộc đối thoại khởi đi từ lời mời gọi khám phá căn tính của “Đấng đang nói với chị” (4: 10) và hoàn tất ở nơi việc Ngài tự mặc khải mình ra: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây.” (4: 26)
2. Cuộc nói chuyện của Đức Giê-su với các môn đệ:
Ở giữa lòng lịch sử của Đức Giê-su với dân Sa-ma-ri xảy ra một cuộc nói chuyện của Đức Giê-su với các môn đệ của Ngài (4: 31-38), trong đó, Đức Giê-su nói về sứ mạng của Ngài và sứ mạng của các môn đệ Ngài. Cuộc đối thoại nầy là dịp Đức Giê-su giải thích ý nghĩa không chỉ của cuộc đối thoại với người phụ nữ Sa-ma-ri và của việc dân Sa-ma-ri đến với Ngài, nhưng cũng của sứ mạng của Ngài và của các môn đệ của Ngài. Cuộc đối thoại của Đức Giê-su với các môn đệ được xây dựng như bức tranh bộ đôi: ở tiền cảnh, được người phụ nữ loan báo, dân Sa-ma-ri đang trên đường đến với Ngài, trong khi ở hậu cảnh, Đức Giê-su vẫn ngồi bên bờ giếng và nói với các môn đệ về ý nghĩa của những gì đã và đang xảy ra.
Toàn bộ chương nầy của Tin Mừng Gio-an là một bước tiến về mầu nhiệm của Đức Giê-su. Sau chủ đề cái khát đích thật, đây là chủ đề cái đói đích thật: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người”.
Người phụ nữ Sa-ma-ri đã ngộ nhận ý nghĩa nước mà Đức Giê-su nói với chị. Các môn đệ cũng ngộ nhận tương tự: “Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?”. Thực ra, cái đói và cái khát của Đức Giê-su chính là công việc mà Cha Ngài sai Ngài đến để chu toàn. Đức Giê-su chỉ cho các môn đệ cánh đồng lúa chung quanh còn bốn tháng nữa sẽ đến mùa gặt để mời gọi họ có tầm nhìn cao hơn: đồng lúa chín vàng đang chờ ngày thu hoạch đó chính là dân Sa-ma-ri đang trên đường đến với Ngài.
Đoạn, cuộc nói chuyện ngân lên một giọng nói trầm buồn: “Thầy sai anh em đi đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả; còn anh em, anh em được vào hưởng kết quả công lao của họ” ám chỉ đến các ngôn sứ Cựu Ước và Gioan Tẩy Giả, nhưng nhất là chính Ngài và cuộc Tử Nạn của Ngài. Từ sự nhọc mệt vất vả của Ngài, hoa trái sẽ là ơn cứu độ cho con người. Như vậy, cuộc đau khổ của Đức Kitô đóng khung câu chuyện lớn lao nầy: cái khát của Ngài bên bờ giếng Gia-cóp loan báo một cái khát khác: “Ta khát” trên thập giá. Chính vì mùa gặt nầy mà Ngài sẽ sai các môn đệ Ngài đi gặt những gì Ngài gieo bằng cuộc sống vắt cạn của mình.
3. Cuộc gặp gỡ của dân Sa-ma-ri :
Lời chứng của người phụ nữ làm xôn xao dân Sa-ma-ri và thúc dục họ lên đường đến với Đức Giê-su, để đích thân gặp gỡ con người của Ngài và lắng nghe Lời Ngài. Dù khởi điểm đức tin của họ là lời chứng của người phụ nữ, tuy nhiên đức tin của họ không dừng lại nhưng vượt qua lời chứng này : « Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian». Do đâu mà dân Sa-ma-ri đạt đến một niềm tin sâu xa như vậy, nếu không phải là họ đã lợi dụng hai ngày Đức Giê-su ở lại với họ để đích thân gặp gỡ và đối thoại với Ngài ? Nếu thế, đức tin của họ không còn căn cứ trên lời chúng của người phụ nữ, nhưng trên kinh nghiệm cá nhân của mình trong cuộc gặp gỡ và đối thoại với Đức Ki-tô. Lúc đó, câu 4 : 40 : « Dân Sa-am-ri xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày » phải là trọng tâm câu chuyện của Chúa Giê-su với dân Sa-ma-ri. Thật kỳ diệu, « ơn cứu độ phát xuất từ dân Do thái » được đón tiếp một cách nồng hậu và được tuyên xưng là Đấng cứu độ trần gian, Đấng ở bên kia tất cả mọi xung đột chủng tộc tôn giáo. Sự nghịch lý này vang dội ngay ở đầu Tin Mừng : « Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở thành con Thiên Chúa » (Ga 1 : 11-12).
Thánh ký kết thúc chuyện kể của mình bằng cách gợi lên tước hiệu mà những người Sa-ma-ri cải đạo đầu tiên ban cho Đức Giê-su : « Đấng Cứu Độ thế giới. » Quả thật, thánh Gio-an là thánh ký duy nhất sử dụng tước hiệu nầy. Toàn bộ câu chuyện nhận được ý nghĩa sâu xa của nó : loan báo chiều kích hoàn vũ của ơn cứu độ.
Vài nhà chú giải chỉ ra một sự song đối đáng ngạc nhiên giữa bài tường thuật sứ vụ của Đức Giê-su ở Sa-ma-ri và bài tường thuật cuộc Tử Nạn của Ngài trong Tin Mừng Gioan. Quả thật, cả hai đều kể ra thân xác mệt mỏi của Ngài, cơn khát của Ngài, và sự hoàn tất công việc của Ngài. Từ đó, họ nghĩ rằng có một mối liên hệ giữa công trình truyền giáo mà Đức Giê-su thực hiện ở Sa-ma-ri, ở đó, Ngài được tuyên xưng là “Đấng Cứu Độ trần gian” và công trình cứu độ thế giới mà Ngài thực hiện trên thập giá; nghĩa là giữa thời gian mặc khải Đấng cứu độ của thế giới và thời gian thực hiện ơn cứu độ cho thế giới. Lúc đó, “giờ thứ sáu” ở trong câu chuyện nầy ám chỉ đến “giờ thứ sáu” trong 19: 14, giờ siêu thăng, giờ ban Thánh Thần, giờ sinh ra Giáo Hội.
Lm Ignatiô Hồ Thông