Lễ Thăng Thiên tưởng niệm biến cố hữu hình mà các Tông Đồ là những chứng nhân: cuộc lên trời của Đức Giê-su, đồng thời biến cố vô hình: cuộc tôn vinh của Đức Giê-su.
Cv 1: 1-11
Sách Công Vụ tường thuật biến cố hữu hình, sau khi đã nhắc lại cuộc gặp gỡ sau cùng của Đấng Phục Sinh với các môn đệ Ngài.
Ephesians 1:17-23
Trong thư gởi các tín hữu Ê-phê-sô, thánh Phao-lô gợi lên biến cố vô hình; biến cố tôn vinh Đức Ki-tô toàn năng “ngự bên hữu Chúa Cha”. Sự viên mãn này mà Giáo Hội, Thân Thể của Đức Ki-tô, được mời gọi dự phần. Đó là “gia nghiệp” mà các tín hữu của Ngài chờ đợi.
Lc 24: 46-53
Đây là đoạn cuối của Tin Mừng Lu-ca, tường thuật rất ngắn gọn việc Chúa Ki-tô Phục Sinh tỏ mình ra lần cuối cùng và được rước lên trời.
BÀI ĐỌC I (Cv 1: 1-11)
Sách Tông Đồ Công Vụ, Chúa Nhật hôm nay trích phần đầu, được trình bày như phần tiếp theo của sách Tin Mừng Lu-ca: cũng một tác giả và cũng một người nhận: ông Thê-ô-phi-lô nào đó mà chúng ta không biết rõ danh tính của ông.
Thánh Lu-ca hoàn tất sách Tin Mừng của mình ở nơi biến cố Thăng Thiên: “Người rời bỏ các ông và được đem lên trời…”. Tựa Ngôn của sách Công Vụ Tông Đồ nêu lên hai lần cùng một sự kiện: “Cho đến ngày Ngài được rước lên trời” (1: 2) và “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn trông thấy Người nữa” (1: 9). Như vậy, bằng cách trình bày văn chương, ở cuối sách Tin Mừng và ở đầu sách Công Vụ, biến cố Thăng Thiên xuất hiện chính xác như vừa hoàn tất vừa khởi đầu: hoàn tất sự hiện diện hữu hình tại thế của Đức Kitô và khởi đầu sự hiện diện vô hình của Ngài, hoàn tất sứ mạng trần thế của Đức Giê-su và khởi đầu sứ mạng của các Tông Đồ.
1. Hai biến cố Thăng Thiên:
Chúng ta có thể phân biệt một cách nào đó hai biến cố Thăng Thiên:
– Biến cố Thăng Thiên thứ nhất không có nhân chứng là cuộc trở về cùng Cha Ngài ngay sau biến cố Phục Sinh, đó là cuộc hội ngộ Ba Ngôi, biến cố thần linh tuyệt mức, tức là sự tôn vinh của Chúa Con, sự tôn vinh mà Đức Giê-su đã nguyện xin trong lời cầu nguyện của Ngài, trước lúc bước vào con đường Khổ Nạn: “Vậy, lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh con bên Cha: xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” (Ga 17: 5).
– Biến cố Thăng Thiên thứ hai là cuộc lên trời hữu hình của Đức Giê-su trước mắt các Tông Đồ. Biến cố này liên quan chủ yếu đến chúng ta: đó là bản tính nhân loại, cùng với Đức Ki-tô, sẽ được dự phần vào vinh quang Thiên Chúa. Vì thế, cuộc Thăng Thiên nầy loan báo cuộc Thăng Thiên của chúng ta.
2. Lý do của biến cố Thăng Thiên hữu hình:
Tại sao Đức Giê-su chọn cách thức ra đi xem ra ngoạn mục nầy, dù nhanh và kín đáo? Trong cuộc gặp gỡ sau cùng của Ngài với các môn đệ, Đức Giê-su chỉ cần loan báo cho họ biết rằng Ngài sẽ không tỏ mình ra nữa, sau đó từ biệt họ rồi biến mất như Ngài đã làm trong suốt bốn mươi ngày kể từ biến cố Phục Sinh.
Chúng ta có thể gặp thấy câu trả lời: biến cố Thăng Thiên hữu hình là cách thức Đức Giê-su giới thiệu cuộc sống tiền hữu và nhập thể của Ngài trong suốt sứ vụ công khai của Ngài. Ngài đã lên trời một cách hữu hình như vậy phù hợp với danh hiệu “Con Người”, nhân vật“đến trên mây trời” trong một thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en, mà Đức Giê-su đã tự nhận mình ở nơi nhân vật này. Trong cuộc đàm luận với ông Ni-cô-đê-mô, Đức Giê-su đã khẳng định: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Galatians 3:13). Trong Diễn Từ Bánh Hằng Sống, Đức Giê-su sử dụng cùng một hình ảnh như vậy khi tuyên bố đến sáu lần Ngài là“bánh hằng sống từ trời xuống” và cuối cùng Ngài chấm dứt bằng những lời như sau: “Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?” (Ga 6: 62). Qua những lời trên, Đức Giê-su thật sự đã loan báo rõ ràng biến cố lên trời tương lai của Ngài.
3. Những lần hiện ra hữu hình của Đấng Phục Sinh:
“Trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa”: Nếu con số bốn mươi ngày không chính xác thì cũng chẳng quan trọng gì, biết bao ý nghĩa được chất chứa ở đây: con số này hình thành nên một song đối với bốn mươi ngày Đức Giê-su đã trải qua trong hoang địa, giữa phép rửa của Ngài bởi Gioan và khởi đầu cuộc đời công khai của Ngài, để chuẩn bị thi hành sứ mạng của Ngài. Bốn mươi ngày là khoảng thời gian giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Thăng Thiên, Đấng Phục Sinh chuẩn bị cho các môn đệ Ngài thi hành sứ mạng.
Chúng ta có thể thắc mắc Đấng Phục Sinh đã sống như thế nào trong suốt bốn mươi ngày. Kinh Thánh cung cấp cho chúng ta một cách nào đó cách sống nầy. Quả thật, khi đọc đoạn văn Công Vụ nầy làm thế nào không nghĩ đến sách Tô-bi-a (12: 15-21). Sau khi đã hoàn thành sứ mạng trần thế của mình, thiên sứ Ra-pha-en bày tỏ cho hai cha con ông Tô-bi-a nguồn gốc thần linh của mình: “Tôi đây là Ra-pha-en, một trong bảy thiên sứ luôn luôn hầu cận và vào chầu trước nhan vinh hiển của Thiên Chúa…Bình an cho các ngươi! …Phần tôi, tôi đã ở với các ngươi … do ý muốn của Thiên Chúa… Các ngươi đã thấy tôi ăn, nhưng thật ra tôi không ăn gì cả, đó chỉ là một thị kiến mà các ngươi thấy. ..Nầy tôi lên cùng Đấng đã sai tôi.” Và thiên sứ lên trời. Hai cha con đứng dậy, nhưng không còn có thể thấy thiên sứ nữa…
4. Cần thiết phải có Chúa Thánh Thần:
Trước khi từ biệt các Tông Đồ, Đức Giê-su loan báo cho các ông biết là trong ít ngày nữa họ sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần: “Ông Gioan đã làm phép rửa bằng nước còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần”.
Vào lúc đó, các ông hỏi Ngài một câu hỏi không thể nào tin được: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?”. Vì thế, giấc mộng chính trị xưa kia của họ: khôi phục nền độc lập Ít-ra-en, vẫn còn đó. Đức Giê-su không quở trách họ. Ngài mượn một hình ảnh khác: vương quốc mà Ngài sắp giao phó cho họ vượt quá không gian Giu-đê nhỏ bé, mang tầm mức thế giới…Nhưng vào lúc nầy, vì chưa có Chúa Thánh Thần, họ chưa thể nào hiểu được.
5. Đức Giê-su biến mất trong mây trời:
Không cốt là một đám mây nào đó, nhưng là dấu chỉ cho thấy sự hiện diện của Thiên Chúa như thường xảy ra trong Cựu Ước. Hơn nữa, thánh Lu-ca là tác giả Tin Mừng về biến cố Truyền Tin: đám mây, dấu chỉ của Chúa Thánh Thần, phủ bóng Đức Ma-ri-a vào lúc Mẹ thụ thai đồng trinh; cũng đám mây bao phủ Đức Giê-su vào lúc Ngài từ giả cõi thế. Một thiên sứ hiện diện khi Đức Trinh Nữ nói tiếng “Xin Vâng”; cũng có các thiên sứ hiện diện vào lúc Đức Giê-su trở về với Cha Ngài.
6. Chiêm niệm và hành động:
Sức mạnh đến từ trên cao sẽ thúc đẩy các môn đệ dấn thân vào một cuộc mạo hiểm truyền giáo lớn lao: “tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất”. Chúng ta đừng ngạc nhiên khi Lu-ca trích dẫn địa danh Giê-ru-sa-lem trước tiên vì Tin Mừng Lu-ca đặt Giê-ru-sa-lem làm trung tâm điểm của ơn Cứu độ.
Đây là lúc phải hành động chứ không là những lưu luyến vô bổ như lời nhắc nhở của thiên sứ: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn trời? …Đức Giê-su cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời”. Họ phải bắt tay vào công việc lớn lao mà Giáo Hội không ngừng theo đuổi. Thật lý tưởng, vừa nuôi dưỡng tấm lòng của mình hướng về quê trời vừa biết liên kết giữa hành động và tưởng niệm.
BÀI ĐỌC II (Ephesians 1:17-23)
Đoạn Thư thánh Phao-lô gởi cho Giáo Đoàn Ê-phê-sô này được chọn là có chủ ý để tưởng niệm biến cố Thăng Thiên của Đức Ki-tô. Mặc dầu không nêu đích danh biến cố Thăng Thiên, nhưng thánh nhân đem lại cho biến cố nầy chiều kích thần học: Đức Giêsu về cùng Chúa Cha đón nhận vinh quang và uy quyền, đồng thời kêu mời mọi tín hữu hãy dự phần vào cùng một cuộc sống vinh quang nầy.
Thánh nhân viết từ Rô-ma trong cảnh giam cầm vào những năm 61-63. Trong những thư viết trong cảnh ngục tù này, thánh nhân cho chúng ta những suy niệm cao vời của mình về mầu nhiệm cứu độ và mầu nhiệm Giáo Hội, “thân thể của Đức Kitô”. Trong đoạn trích thư này, chúng ta có thể phân biệt hai phần, phần thứ nhất: lời cầu nguyện, và phần thứ hai: những mối liên hệ giữa Đức Ki-tô vinh hiển và Giáo Hội.
1. Lời cầu nguyện:
Trong những thư sau cùng của thánh Phao-lô, lời cầu nguyện càng lúc càng trở nên quan trọng. Tất cả những thư mà thánh nhân viết trong cảnh bị giam cầm đều theo thể văn cầu nguyện. Thánh nhân nhắc đi nhắc lại: “Anh em hãy cầu nguyện không ngừng. Anh em hãy cầu nguyện trong mọi lúc”. Chính ngài cũng cho họ mẫu gương. Lời cầu nguyện của ngài luôn luôn ngỏ lời với Chúa Cha. Trong bản văn nầy, Chúa Cha đón nhận tước hiệu “Chúa Cha vinh hiển”. Cách diễn tả nầy có thể là tước hiệu phụng vụ, do từ một viễn cảnh được nêu lên: viễn cảnh vinh quang mà Chúa Cha cho Chúa Con Phục Sinh được dự phần vào, theo sau Chúa Con, là mọi tín hữu.
Thánh Phao-lô cầu xin Chúa Cha ban cho các tín hữu thần khí khôn ngoan để họ càng ngày càng hiểu biết Thiên Chúa. “Hiểu biết Thiên Chúa” được hiểu theo Kinh Thánh là được sống với Ngài trong đức tin và đức mến, chứ không là một sự hiểu biết trừu tượng.
“Xin Ngài soi lòng mở trí cho anh em để anh em thấy rõ đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh”. Hai cách diễn tả: “niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi” và “gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng các thánh”, chỉ cùng một thực tại tinh thần: dự phần vào cuộc sống vinh quang của Chúa Con Phục Sinh. Quả thật, trong Cựu Ước, cách nói: “chia sẻ gia nghiêp” gợi lên một sự kiện lịch sử: chia sẻ Đất Hứa, nghĩa là đất Ca-na-an, giữa mười hai chi tộc Ít-ra-en. Trong Tân Ước: “chia sẻ gia nghiệp” giữa những người được tuyển chọn, nghĩa là “đồng thừa tự” cuộc sống vinh quang với Đức Kitô.
2. Đức Kitô vinh hiển và Giáo Hội:
Lời nguyện xin cho được ơn soi sáng dâng trào thành lời ngợi ca tôn vinh Đức Kitô, Đấng được đặt làm Chủ Tể vũ trụ và Thủ Lãnh Giáo Hội.
“Người đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng”. Thánh Phao-lô ám chỉ đến những niềm tin rất phổ biến trong thế giới Do thái chịu ảnh hưởng văn hóa Hy lạp, theo đó những sinh linh thiên giới, tức là những quyền lực thần thiêng hay tinh tú, chia sẻ việc điều hành vũ trụ với nhau, cả trong trật tự vật lý lẫn trong trật tự tinh thần.
Ở nơi số lượng đông đảo Quyền Thần nầy, chắc chắn phải kể đến những quyền lực của Ác Thần (Tử Thần là một trong số đó) mà Đức Kitô đã chiến thắng. Thánh nhân không nêu đích danh trong đoạn văn nầy, nhưng ở gần cuối thư: “Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ. Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là những quyền lực thần thiêng, với những bật thống trị tối tăm nầy, với những thần linh quái ác chốn trời cao” (Ephesians 6:12).
“Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Ki-tô”. Đây là câu trích dẫn trực tiếp từ Thánh Vịnh 8, nêu bật tư tưởng mà thánh Phao-lô muốn diễn tả. Qua những ngôn từ nầy, thánh vịnh gia gợi lên sự cao cả của con người được Thiên Chúa tạo dựng: “Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự dưới chân.” (Tv 8: 6-7). Như vậy thánh nhân muốn nói rằng Đức Ki-tô là “Con Người” tuyệt hảo.
“Thiên Chúa đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Ki-tô”. Hình ảnh nầy là chủ đề trung tâm của Thư gởi cho các tín hữu Ê-phê-sô. Nó là đỉnh cao của việc suy gẫm sâu xa về mầu nhiệm Đức Ki-tô. Đầu ở đó thì toàn thân ở đó. Và đầu, không chỉ là yếu tố truyền lệnh, điều khiển, nhưng còn là một bộ phận sinh động, hiệp nhất, bảo đảm sự tăng trưởng của toàn thân. Khi nào sứ mạng của mình được hoàn thành, Giáo Hội sẽ hoàn tất ở nơi chính Đức Kitô.
TIN MỪNG (Lc 24: 46-53)
Thánh Lu-ca đã để lại cho chúng ta hai bài trình thuật về biến cố Thăng Thiên: một trong sách Tin Mừng của mình, và một trong sách Công Vụ Tông Đồ. Năm Phụng Vụ Năm C này cho phép chúng ta đối chiếu hai bài trình thuật này: bài trình thuật của sách Công Vụ (bài đọc I) có nhiều tình tiết hơn, bài trình thuật của sách Tin Mừng thanh đạm hơn. Tuy nhiên, sự khác nhau đáng kể nhất liên quan đến thời điểm mà biến cố xảy ra. Trong sách Tin Mừng, thánh Lu-ca định vị biến cố này vào đúng buổi chiều Phục Sinh, còn trong sách Công Vụ, vào bốn mươi ngày sau. Đây là cách thức mà thánh Lu-ca đã cố gắng thuật lại hai biến cố Thăng Thiên: Đức Giê-su Phục Sinh trở về ngự bên cạnh Chúa Cha, từ nay Ngài không còn hiện diện hữu hình với các môn đệ sau những lần hiện ra liên tục của Ngài với các ông.
1. Lời hứa ban Thánh Thần
Như trên đường Em-mau, Đức Giê-su soi lòng mở trí cho hai môn đệ của Ngài hiểu Kinh Thánh. Xem ra thánh Lu-ca đã muốn cô động trong vài dòng này giáo huấn mà Đức Giê-su ban cho các môn đệ suốt bốn mươi ngày được sách Công Vụ kể ra. Đây là bản tóm tắt giáo lý tiên khởi, giải thích sứ mạng của Đức Giê-su Ki-tô và chiều kích hoàn vũ của ơn cứu độ.
Một đàng, biến cố Thăng Thiên là điều kiện của biến cố Hiện Xuống, vì Thăng Thiên đồng nghĩa với việc tôn vinh. Chính Đức Ki-tô “được tôn vinh” sai phái Thánh Thần hay Chúa Cha sai phái Thánh Thần nhân danh Ngài (Ga 14: 26). Tin Mừng Gioan nhấn mạnh nhiều lần: “Bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh” (Ga 7: 39) hay “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vây, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em” (Ga 16: 7). Đàng khác, việc Đức Giê-su không còn hiện diện hữu hình nữa là một giai đoạn cần thiết để chuẩn bị cho các môn đệ một cách thế hiện diện khác, vô hình và nội tại, sự hiện diện của Thánh Thần.
2. Biến cố Thăng Thiên khai mở thời kỳ sứ mạng:
Trong cuộc gặp gỡ sau cùng này, Đức Giê-su đòi hỏi các môn đệ Ngài là chứng nhân của Ngài để công bố cho thiên hạ ơn tha thứ tội lỗi và nhu cầu hoán cải. “Bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem”. Như trong sách Công Vụ, thánh Lu-ca kể ra Giê-ru-sa-lem trước tiên. Chính từ Giê-ru-sa-lem mà ánh sáng đến, chính ở Giê-ru-sa-lem mà các Tông Đồ phải chờ đợi Thần Khí, chính ở Giê-ru-sa-lem mà họ trở lại sau biến cố Thăng Thiên để chúc tụng Thiên Chúa.
3. Một phụng vụ từ giã:
Tiếp đó, thánh Lu-ca đề cập đến chính biến cố Thăng Thiên; thánh ký đem lại cho biến cố này một cung giọng phụng vụ: Đức Giê-su dẫn các ông mãi tới gần Bê-ta-ni-a. Ở đó, đối diện với Thành Thánh và Đền Thờ, Ngài giơ tay chúc lành cho các ông, rồi Ngài rời khỏi các ông và được rước lên trời, trong khi các ông sụp lạy Ngài. Sách Công Vụ thuật lại một phụng vụ từ giã tương tự. Khi thánh Phao-lô từ giã các kỳ mục trong Hội Thánh Ê-phê-sô với niềm xác tín rằng ngài sẽ không còn gặp lại các ông nữa, thánh nhân quy tụ họ trên bờ biển, căn dặn họ những lời sau cùng, phó thác họ cho Thiên Chúa, rồi thánh Phao-lô cùng tất cả anh em quỳ gối xuống cầu nguyện (Cv 20: 17-36).
4. Biến cố Thăng Thiên khai mở thời kỳ hy vọng:
Đức Giê-su được rước lên trời cùng với thân thể của Ngài. Ngài không rũ bỏ nhân tính để trở về bên cạnh Chúa Cha. “Nhân tính, cùng với Đức Giê-su, đi vào trong vinh quang Thiên Chúa”. Thánh Phao-lô nói: “Đầu ở đâu, thì các chi thể cũng sẽ ở đó”. Việc Chúa Giê-su lên trời cùng với thân thể của Ngài loan báo cuộc lên trời của chúng ta; và vinh quang của Ngài loan báo cuộc tôn vinh thân thể của chính chúng ta. Thăng Thiên và Phục Sinh là hai khía cạnh của cùng một mầu nhiệm; phụng vụ tiên khởi của Giáo Hội cử hành hai biến cố này cùng nhau.
5. Biến cố Thăng Thiên khai mở thời kỳ niềm tin:
“Các ông trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ”. Thật mâu thuẫn, thay vì buồn phiền, các ông lại tràn đầy niềm vui sau khi đã thấy Đức Giê-su biến mất trước mắt các ông. Niềm vui thiên sai, niềm vui cứu độ mà thánh Lu-ca là vị thánh ký đã làm sáng tỏ nhất; niềm vui của lời hứa ban Thần Khí, nhưng nhất là niềm vui thâm sâu của một niềm tin chắc chắn.
6. Trong Đền Thờ:
“Họ hằng ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa”. Tin Mừng Lu-ca bắt đầu với việc tư tế Da-ca-ri-a đang lo việc tế tự trong Đền Thờ và hoàn tất trên lời chúc tụng của các tông đồ trong cùng một đền thờ. Với tư tế Da-ca-ri-a, sứ thần đã loan báo cuộc sinh hạ tương lai của một hài nhi, đó sẽ là Gioan Tẩy Giả; với các môn đệ Ngài, Đức Giê-su hứa Thần Khí sẽ ngự xuống. Tin Mừng Lu-ca mở ra và đóng lại dưới dấu chỉ lời hứa và dấu chỉ lời cầu nguyện.
Lm Inhaxiô Hồ Thông