Như Chúa Nhật trước, chủ đề nổi bật của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXV nầy vẫn là viễn cảnh Tử Nạn của Đức Giê-su được gợi lên lần thứ hai trong Tin Mừng. Ở nơi chủ đề nầy, ngầm chứa những tranh cãi phàm nhân có thể dẫn đến ghen tuông, thù hận, thậm chí đến việc sát hại đối thủ của mình. Người Công Chính (bài đọc I và Tin Mừng) là nạn nhân tiêu biểu cho sự ghen tuông và thù hận nầy.
Kn 2: 12, 17-20: Bài đọc I được trích dẫn từ sách Khôn Ngoan. Chính vì cuộc đời đạo hạnh và trung tín của mình mà Người Công Chính bị những người vô đạo lại bách hại cho đến chết.
Gc 3: 16-4: 3: Thư của thánh Gia-cô-bê là cuộc bút chiến lên án những ghen tuông tranh chấp, hậu quả của những đam mê và những khuynh hướng xấu trong khi Đức khôn ngoan của Thiên Chúa là lòng yêu thương anh em mình, quên mình, niềm nở đón tiếp anh em mình, mưu tìm sự hòa đồng.
Mc 9: 29-36 Trong Tin Mừng, Đức Giê-su loan báo lần thứ hai cho các môn đệ của Ngài cuộc Tử Nạn sắp đến của Ngài, nhưng các ông chưa hiểu và tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất trong họ. Chúa Giê-su muốn khai lòng mở trí cho họ hiểu rằng trong Giáo Hội của Ngài người lớn nhất là người hầu hạ mọi người. Đó là hình ảnh thân thương của một gia đình: cha mẹ là người lớn nhất trong gia đình lại trở thành con sen đứa ở phục vụ con cái của mình.
BÀI ĐỌC I (Kn 2: 12, 17-20)
1. Bối cảnh:
Tác giả sách Khôn Ngoan là một người Do thái sinh quán ở thành A-lê-xan-ri-a, ông đã viết vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên. Thành A-lê-xan-ri-a lúc đó là một trong những trung tâm rực rỡ nhất của văn hóa Hy lạp và đồng thời một trong những thành phố quan trọng nhất của những người Do thái Hải Ngoại.
Quả thật, cộng đồng Do thái ở đây gìn giữ nét đặc thù của mình; tuy nhiên sức cám dỗ của ngoại giáo chung quanh là một thực tại hằng ngày: tính đa dạng của những lý luận triết học, sự phát triển của các bộ môn, tôn giáo tổng hợp, sức hấp dẫn của những tôn giáo mầu nhiệm, vân vân. Ở đây cũng có những người bội giáo càng lúc càng đông. Tác giả viết để phòng ngừa những sa ngã mới cho những đồng đạo của ông. Với sự sáng suốt của một hiền nhân, ông làm chưng hửng tiến trình ghen ghét được phát triển ở giữa họ, từ ước muốn dập tắt những lời quở trách gây phiền hà họ, cho đến ước muốn làm khổ, đoạn làm hại người công chính lòng dạ sắc son.
2. Lập luận cực đoan của quân vô đạo:
Đoạn văn của sách Khôn Ngoan nầy không trực tiếp là một sấm ngôn liên quan đến cuộc Tử Nạn của Đức Ki tô; đây là một phân tích tâm lý mô tả tình trạng tinh thần của những người Do thái bội giáo trước cuộc sống đạo hạnh của người công chính. Tấm lòng trung tín của người công chính đối với họ là một lời trách cứ thường hằng. Sự phẩn nộ của họ đã đẩy họ đến lập luận quá khích, dẫn họ đến làm khổ và sát hại người công chính: “Ta hãy gài bẩy hại người công chính, vì nó làm vướng chân ta, nó chống lại các việc ta làm, trách ta vi phạm luật Chúa và hạch ta không giữ lễ giáo. Ta hãy xem những lời nó nói có thật không và nghiệm xem cuối cùng nó sẽ ra sao”. Tiến trình thù ghét nầy một ngày kia được áp dụng chống lại Người Công Chính tuyệt hảo. Vì thế, sứ điệp nầy mặc lấy một khía cạnh ngôn sứ.
3. Người công chính chịu đau khổ:
“Nếu người công chính là con Thiên Chúa, thì Người sẽ phù hộ nó”.
Tước hiệu “con Thiên Chúa” là tước hiệu dân Chúa chọn, họ tự kiêu, hãnh diện vì Thiên Chúa đã công bố họ là con cái của Ngài; nhưng trong trường hợp nầy tước hiệu nầy mặc lấy một cung giọng ngôn sứ, vì đây sẽ là lý do mà Thượng Hội Đồng Do thái sẽ nại đến để kết án tử Đức Giê-su: “Người nầy tự xưng mình là Con Thiên Chúa”.
“Ta hãy lên án cho nó phải chết nhục nhã, vì cứ như nó nói, nó sẽ được Thiên Chúa viếng thăm”.
Những lời nầy nhắc nhớ Tv 22, mô tả người công chính bị bách hại kêu gào nỗi khốn khổ của mình nhưng cũng niềm cậy trông của mình vào Đức Chúa. Chính Thánh vịnh này mà trên Thập Giá Đức Giê-su trích dẫn: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”.
Những kẻ thù của Đức Giê-su sẽ trích cũng câu nầy đối mặt với nạn nhân của họ đang hấp hối trên thập giá: “Hắn cậy vào Thiên Chúa, thì bây giờ Người cứu hắn đi, nếu quả thật Người thương hắn! Vì hắn đã nói: Ta là Con Thiên Chúa” (Matthew 27:43). Tác giả sách Khôn Ngoan áp dụng những lời nầy vào dung mạo của Người Công Chính lý tưởng gần một trăm năm trước đó.
BÀI ĐỌC II (Gc 3: 16-4: 3)
Chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Gia-cô-bê. Những lời khuyên nhũ theo hình thức của những châm ngôn nhắc nhớ cách thức của các sách minh triết Cựu Ước, nhưng mang hơi thở Tin Mừng.
Thánh Gia-cô-bê đã nhiều lần khai triển mối phúc: “Phúc thay những người nghèo khổ!”. Đoạn văn nầy minh họa một mối phúc khác, “Phúc thay ai xây dựng hòa bình!”.
Đoạn văn nầy có hai phần:
1. Phần thứ nhất (3: 16-18)
Trong phần thứ nhất, tác giả đối lập những tranh chấp gây gỗ của con người với đức khôn ngoan của Thiên Chúa, Đức khôn ngoan “làm cho con người trở nên trước là thanh khiết, sau là hiếu hòa, khoan dung, mền dẻo, mến chuộng điều lành, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình”. Việc liệt kê dài những phẩm chất của đức khôn ngoan nhắc nhớ bài ca đức mến trong thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Ccô-rin-tô: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tuông, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13: 4-7). Nhưng thánh Gia-cô-bê đặt dấu nhấn chủ yếu trên sự hòa bình, hòa bình dập tắt những tranh chấp cải cọ vì “người xây dựng hòa bình là người gieo giống trong hòa bình; và hoa trái họ thu hoạch được là cuộc đời công chính”.
2. Phần thứ hai (4: 1-3)
Trái ngược với đức khôn ngoan của Thiên Chúa là những xung đột ở bên trong con người, ở đó những ham muốn là nguyên do sâu xa nhất của “những hành động hung ác”. Cung giọng của tác giả trở nên khẩn thiết, văn phong được đẩy cao đến mức ngoa dụ: “Anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột nhau, gây chiến với nhau”.
Cách diễn tả dữ dội nầy, chúng ta cũng gặp thấy thánh Gioan sử dụng trong thư thứ nhất của thánh nhân: “Phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân” (1Galatians 3:15). Những từ ngữ và hình ảnh ở đây thuộc thể loại bút chiến.
Là Giám mục Giê-ru-sa-lem, thủ lãnh Giáo Hội Mẹ, thánh Gia-cô-bê cảm thấy mình chịu trách nhiệm về những tín hữu xa xôi của mình; thánh nhân đặt tất cả hồn tông đồ của mình trong những lời kêu gọi sống cuộc sống Ki tô hữu chân chính.
TIN MỪNG (Mc 9: 30-37)
Trong đoạn trích Tin Mừng này, ý tình đan quyện vào nhau, tâm tư tình cảm dạt dào đầy cảm xúc.
Đức Giê-su thực hiện giai đoạn sau cùng của sứ vụ Ga-li-lê của Ngài; Ngài trở lại lần cuối cùng thành Ca-phác-na-um được xem là bản doanh sứ vụ của Ngài. Từ đó, Ngài sẽ lên Giê-ru-sa-lem để bước vào con đường Tử Nạn của Ngài. Chúng ta biết rằng tại các sách Tin Mừng Nhất Lãm, Chúa Giê-su chỉ lên Giê-ru-sa-lem một lần, trong khi Tin Mừng Gioan tường thuật Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem nhiều lần vào dịp các ngày đại lễ.
1. Loan báo lần thứ hai cuộc Tử Nạn và Phục Sinh.
Khi đi ngang qua miền Ga-li-lê, Đức Giê-su tránh đám đông; Ngài giới hạn giáo huấn của Ngài chỉ vào các môn đệ của Ngài. Khi Thầy trò đang đi trên đường, Ngài gợi lên lần thứ hai viễn cảnh cuộc Tử Nạn sắp đến của Ngài; Ngài lấy lại các từ ngữ hầu như y hệt lời loan báo thứ nhất: “Con Người sẽ bị nốp vào tay người đời”.
Động từ “nộp” ở đây có nghĩa rất mạnh, nhưng được dùng ở thể thụ động “bị nộp” muốn nói lên điều gì? Sau nầy, thánh Mác-cô sẽ vạch mặt chỉ tên những kẻ nộp Đức Giê-su để đưa Ngài đến cái chết: đó là ông Giu-đa (14: 10), các thượng tế (15: 1) và quan tổng trấn Phi-la-tô (15: 15). Tuy nhiên, đây cũng là hình thức thông dụng mà người Do thái thường dùng để chỉ Thiên Chúa là tác nhân mà tránh nêu danh Người ra vì lòng tôn kính. Vì thế, cái chết của Đức Giê-su có thể quy trách cho những kẻ tội lỗi gây ra, nhưng đó không là một sự cố đơn giản xảy ra trong lịch sử. Các Ki tô hữu sẽ cắt nghĩa “điều kỳ chướng” nầy bằng cách cho thấy nó nằm trong ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa. Đó cũng là điều mà lời loan báo đầu tiên diễn tả: “Con người phải chịu nhiều đau khổ”.
“Vào tay người đời”, đây là diễn ngữ kinh thánh để chỉ những kẻ thù không có lòng xót thương; ở đây, diễn ngữ nầy hình thành nên một sự đối chiếu thống thiết với danh xưng “Con Người”. Với danh xưng “Con Người” nầy, Đức Giê-su nhấn mạnh nhân tính của Ngài. Như bao nhiêu con người khác, Ngài cũng biết đau khổ và sự chết đang chờ đợi Ngài, nhưng vận mệnh của Ngài được hoàn tất theo thị kiến của Đa-ni-en trong vinh quang. Vì thế, như sau lần loan báo đầu tiên về cuộc Tử Nạn của mình, Đức Giê-su lại nói thêm lời hứa về cuộc Phục Sinh của Ngài.
2. Sự cô đơn:
Mỗi lần Chúa Giê-su loan báo rõ ràng cuộc Tử Nạn của Ngài, thánh Mác-cô đều nhấn mạnh đến “sự ngu muội” chậm hiểu của các môn đệ (8: 32; 9: 32). Các ông không hiểu, nhưng không dám hỏi Ngài; thay vì đó, các ông lại nghĩ đến việc khác. Các ông đinh ninh rằng việc đi lên Giê-ru-sa-lem lần nầy chắc hẳn Thầy mình sẽ thực hiện sứ mạng của Đấng Mê-si-a, Ngài sẽ thiết lập vương quốc của Ngài; vì thế, các ông bắt đầu tranh luận về những đặc quyền đặc lợi của họ giữa nhóm, xem ai là người lớn hơn cả.
Đức Giê-su không dự phần vào cuộc tranh luận của họ; chắc chắn Ngài đi riêng một mình: thánh Mác-cô ghi nhận rằng vào lúc loan báo lần thứ ba cuộc Tử Nạn của Ngài, “Ngài dẫn đầu các ông” (10: 32). Không ai trong nhóm Mười Hai, những người mà Ngài đã gắn bó suốt ba năm nay, hỏi Ngài về vận mệnh đau thương mà Ngài mời gọi họ dự phần vào. Nói cho cùng, ở nơi họ Ngài không gặp thấy sự đồng hội đồng thuyền với Ngài. Đây là khúc dạo đầu cho việc bỏ rơi hoàn toàn mà Ngài sẽ nhận biết vào lúc Ngài bị bắt. Chúng ta cảm thấy nỗi đau đớn của Ngài qua cách trình bày giản dị của đoạn Tin Mừng nầy.
3. Bài học về sự phục vụ:
Khi đến thành Ca-phác-na-um, vào trong nhà, Đức Giê-su hỏi các môn đệ: “Dọc đường, anh em tranh luận với nhau về chuyện gì vậy?” Các ông làm thinh, không ai dám thú nhận đề tài làm họ bận lòng. Nhưng Đức Giê-su không cần ai nói với Ngài. Vả lại, bài học mà Ngài sắp cho họ có thể giúp cho họ hiểu một cách gián tiếp những lời của Ngài mà vào giây phút nầy, họ đã không thể hiểu được: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”.
Với giáo huấn về sự phục vụ nầy, Đức Giê-su đả đảo ngược trật tự thông thường của phẩm trật nhân loại: ăn trên ngồi trước, hưởng những đặc quyền đặc lợi, mà Ngài đã rất dị ứng ở nơi cách sống của những người Biệt Phái. Có lần Ngài đã nói lên ý nghĩa của sứ mạng của Ngài: “Con Người đến không để được phục vụ nhưng để phục vụ”.
Đức Giê-su sẽ đưa ra một mẫu gương rõ ràng hơn nữa vào bữa ăn cuối cùng của Ngài với các môn đệ, Ngài rời chỗ ngồi danh dự của Ngài, mặc bộ đồng phục kẻ hầu người hạ và cúi xuống mà rửa chân cho các môn đệ của Ngài (Ga 13: 4-16) với lời dạy rõ ràng: “Anh em gọi Thầy là Thầy, là Chúa, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13: 13-15).
Nhưng ngay từ bây giờ, Ngài ban cho họ một bài học đặc biệt, soi sáng mặc khải trên con đường lên Giê-ru-sa-lem, con đường tiến về cuộc Khổ Nạn của Ngài, ở đó Ngài đích thân minh họa sứ điệp của Ngài: Ngài sẽ bị đối xử như người rốt hết và sẽ chịu khổ hình của những kẻ nô lệ. Sau điều đó, Ngài sẽ là người đầu hết, trưởng tử của một nhân loại mới. Ngài ngầm hướng tư tưởng của các môn đệ Ngài về sấm ngôn Người Tôi Trung của I-sai-a.
4. Bài học về đức khiêm hạ:
Để có thể nhổ tận gốc rể tính tự cao tự đại và tự mãn của các môn đệ Ngài, Đức Giê-su cho một ví dụ khác. Ngài đem một em nhỏ đặt giữa các ông và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em nầy vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”. Chúa Giê-su đối lập thế giới người lớn tự phụ và tham vọng với thế giới trẻ thơ. Trẻ thơ có nhiều đức tính mà người môn đệ của Ngài phải học: chúng biết rõ thân phận yếu đuối nhỏ bé của mình, vì thế, chúng không phô trương sự khôn ngoan và quyền hành của mình, nhưng bày tỏ một niềm tin tưởng đơn sơ và chân thành. Hơn thế nữa, trong Tin Mừng, những kẻ yếu đuối nhỏ bé lại là đàn chiên của Ngài mà Ngài tận tình chăm sóc và hy sinh mạng sống mình cho chúng (Ga 10: 11-15), đó cũng là những “chiên con” mà Ngài sẽ trao gởi cho thánh Phê-rô chăm sóc với lời căn dặn đến ba lần phải yêu mến Ngài hơn bất cứ ai (Ga 21: 15-16).
Trang Tin Mừng nầy là một trong những trang làm chứng về sự chân thật của các sách Tin Mừng. Các Tông Đồ đã không có lý lẽ để tự phụ về mình ở nơi tình tiết nầy; tuy nhiên họ đã để lại tình tiết nầy cho những thế hệ sau nầy, vì nhận ra một cách khiêm tốn tâm trí chậm hiểu và thiếu độ nhạy bén của mình.
Sức hấp dẫn và lôi cuốn của Giáo Hội Đức Ki tô không phải ở nơi việc phô trương những quyền cao chức trọng, nhưng là ở nơi thái độ khiêm tốn hạ mình xuống mà phục vụ những người anh em bé nhỏ đơn sơ chân thành. Nói cho cùng, đây là tâm tình của một gia đình, ở đó cha mẹ là người lớn nhất nhưng đã biến mình thành con sen, đứa ở để phục vụ con cái của mình.
Lm Ignatiô Hồ Thông