Chúa Nhật đầu tiên sau lễ Ngũ Tuần được liên kết khá sớm với việc cử hành lễ Ba Ngôi. Thánh lễ tôn vinh Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được cử hành vào thế kỷ thứ bảy. Chiếm một chỗ xác định trong lịch phụng vụ, cuộc cử hành nầy dần dần được xem như một ngày lễ đặc biệt. Kể từ thế kỷ thứ mười, có khá nhiều nhà thờ cử hành thánh lễ nầy một cách long trọng. Vào năm 1334, Đức Giáo Hoàng Gioan XXII chuẩn nhận việc cử hành nầy ở Rô-ma và mở rộng đến Giáo hội hoàn vũ.
Xh 34: 4-6; 8-9
Bài đọc I là đoạn trích nổi tiếng từ sách Xuất Hành, ở đó Thiên Chúa mặc khải cho ông Mô-sê Danh của Ngài và định nghĩa mình: “Thiên Chúa từ bi nhân hậu, nhẫn nại, giàu ân nghĩa và thành tín.”
2Cr 13: 11-13
Phần kết thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi cho Giáo Đoàn Cô-rin-tô chứa đựng một trong những công thức Ba Ngôi chính xác nhất của toàn bộ Tân Ước.
Galatians 3:16-18
Đoạn Tin Mừng Gioan gợi lên tình yêu của Chúa Cha, Đấng trao ban Con của Ngài cho nhân loại để họ được sống đời đời. Trong sự hiệp thông tình yêu mật thiết giữa Cha và Con và sự tuôn tràn của tình yêu nầy về thụ tạo, Giáo Hội phân biệt cách thức diễn tả Chúa Thánh Thần.
BÀI ĐỌC I (Xh 34, 4-6, 8-9).
Sách Xuất Hành kể lại cuộc ra khỏi đất Ai-cập và thời kỳ đầu tiên dân Do thái hành trình trong hoang địa. Biến cố nầy được định vị có lẽ vào thế kỷ 13 BC.
Nhưng bài tường thuật cũng ghi lại kinh nghiệm tôn giáo của một dân tộc, kinh nghiệm duy nhất mà vị lãnh đạo của dân, ông Mô-sê, người mà Thiên Chúa đã mặc khải Danh Ngài, được thụ hưởng trước tiên.
Sách Xuất Hành tường thuật đến ba lần mặc khải nầy, và mỗi một lần, từ những nguồn khác nhau. Người ta biết rằng ba chứng liệu cốt yếu làm nền tảng của sách Xuất Hành cũng như Ngũ Thư: chứng liệu Gia-vít (Thiên Chúa được gọi Gia-vê rồi, ngay từ công trình Sáng Tạo), chứng liệu Ê-lô-hít (Thiên Chúa được gọi Ê-lô-him) và chứng liệu Tư Tế (được các tư tế biên soạn, và Thiên Chúa cũng được gọi Ê-lô-him).
Thiên Chúa mặc khải Danh Ngài cho ông Mô-sê lần thứ nhất vào lúc Ngài trao phó cho ông sứ mạng giải phóng dân Do thái khỏi ách Ai-cập, theo trình thuật Ê-lô-hít (Xh 3: 14-15); lần thứ hai sau cuộc thất bại của ông Mô-sê khi hội kiến với Pha-ra-on, theo trình thuật tư tế (Xh 6: 2-5).
Bản văn mà chúng ta đọc vào Lễ Ba Ngôi nầy, thuộc chứng liệu Gia-vít. Tác giả chỉ long trọng nhắc lại Danh Thiên Chúa, Gia-vê, bởi vì ông đã luôn luôn gọi Thiên Chúa dưới tước vị nầy, nhưng ông mang đến cho mặc khải cảm động những phẩm tính của chính Hữu Thể thần linh, Ngài là một vị Chúa rất mực yêu thương và giàu lòng nhân hậu.
1. Thần Hiện trên núi:
“Khi ấy, ông Mô-sê dậy sớm và lên núi Xi-nai theo lệnh Chúa đã truyền cho ông; ông mang hai bia đá trong tay.”
Trước đây, ông Mô-sê đã lên núi Si-nai và đã lãnh nhận ở đây các Bia ghi Lề Luật rồi. Nhưng khi xuống núi, ông đã ngạc nhiên đau đớn khi gặp thấy dân Do thái múa hát chung quanh “con bê bằng vàng,” đại diện các thần Ba-an ngoại giáo. Tức giận, ông đã ném vỡ các Bia Lề Luật (Xh 32: 19).
Chương 34 mô tả việc tái lập Giao Ước. Quả thật, bài trình thuật nầy là một bài trình thuật nhị trùng với bài trình thuật Giao Ước thứ nhất. Nhà biên soạn sau cùng của sách Xuất Hành, trước nhiều chứng liệu, đã toan tính hòa hợp chúng vào nhau. Khi định vị bài trình thuật Gia-vít về Giao Ước sau tội bội giáo thờ con bê bằng vàng, ông đã cho bài trình thuật nầy một nét riêng: Gia vê là Thiên Chúa hay tha thứ.
Những chi tiết của bài trình thuật mang dấu ấn của tác giả. Chính cũng một tác giả trình bày Gia-vê “đi dạo với hai ông bà nguyên tổ trong vườn lúc gió chiều hiu hiu thổi” trong sách Sáng Thế Ký. “Chúa ngự xuống trong đám mây”, đám mây chiếu sáng nầy vừa báo hiệu sự hiện diện của Thiên Chúa, đồng thời vừa che phủ sự hiện diện của Ngài. “Ngài đứng đó với ông Mô-sê” theo cùng cung cách thân mật như Ngài đã đứng gần bên A-đam và nói chuyện với ông. Hoạt cảnh vừa giản dị vừa uy nghi hùng vĩ.
Người ta đã đặt nhan đề cho sách Xuất Hành là “Tin Mừng Cựu Ước.” Sách xứng đáng với tên gọi nầy: Thiên Chúa ngự xuống và đứng bên cạnh con người để mặc khải tình yêu của Ngài và loan báo sự tha thứ của Ngài.
2. Danh Thiên Chúa:
“Người đi qua trước mặt ông và công bố: “Ta là Giavê, Đức Chúa.”
Danh Thiên Chúa được diễn tả bởi bốn phụ âm: Y H W H. Tác giả nối kết bốn phụ âm nầy vào hình thức cổ xưa của động từ “là”. Những vĩ tố động từ không được xác định, vì thế, có thể được dịch theo nhiều cách khác nhau. Danh nầy có thể được hiểu: “Ta là Đấng sẽ là” hay “Ta là Ta” hoặc “Ta là Đấng tự hữu.”
Lời khẳng định khá bí ẩn đến nổi người ta có thể kết luận rằngThiên Chúa không thực sự trao ban Danh Ngài. Lại càng không nữa, vì theo não trạng Sê-mít, tên là chính người ấy, biết tên của một người, chính có quyền điều khiển người mang tên đó. Thiên Chúa không phải trao phó mình vào trong tay con người. Như thế, muốn nói rằng Danh Thiên Chúa thì khôn tả, không thể tát cạn mầu nhiệm của Ngài. Dù thế nào, Thiên Chúa định vị mình như Hữu Thể siêu việt, độc lập tuyệt mức, không hư vô như các ngẫu tượng, Ngài tự hữu.
Sau nầy, khi Đức Kitô tuyên bố: “Ta là,” Ngài mặc nhiên quy chiếu đến mặc khải Si-nai, áp dụng cho chính mình Danh Thiên Chúa. “Trước khi có A-bra-ham, thì tôi là” (Ga8:58). “Nếu các anh không tin rằng tôi là, các ông sẽ chết trong tội của các ông.” (Ga 8: 24).
Vào thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên, dân Do thái có thói quen không xướng danh Gia-vê để tôn kính Thiên Chúa. Tên nầy được thay thế bởi tiếng Do thái “Adonai” hay tiếng Hy lạp “Kurios,” ông chủ, ngài. Tuy nhiên, danh Gia-vê vẫn được dùng để cấu thành những tên riêng và dưới những hình thức rút gọn như người ta gặp thấy Yo, Yeho, Yahu, vân vân. Như vậy Yehoshoua (Yeho-shoua) = “Thiên Chúa cứu” hay trong tán tụng ca phụng vụ Allelu-ya.
3. Thiên Chúa từ bi nhân hậu, nhẫn nại, giàu ân nghĩa và thành tín.
Thiên Chúa tự giới thiệu mình cho ông Mô-sê Ngài là vị Thiên Chúa từ bi nhân hậu, nhẫn nại, giàu ân nghĩa và thành tín.
Trong ngữ cảnh hiện thời, Thiên Chúa muốn nói với ông Môsê Ngài tha thứ cho dân Ngài tội bội giáo mà việc thờ lạy con bê vàng là chứng cớ hiển nhiên.
Trong ngữ cảnh chung của Kinh Thánh, mặc khải nầy được ghi khắc như lời cải chính hình ảnh của một Thiên Chúa đáng sợ và thù hằn. Nó loan báo những sứ điệp của các đại ngôn sứ và giáo huấn của sách Đệ Nhị Luật về lòng từ bi của Thiên Chúa. Nó đánh dấu một trong những đỉnh cao của Cựu Ước.
4. Lời cầu nguyện của ông Mô-sê:
Ông Mô-sê là người trung gian giữa Thiên Chúa và một dân tội lỗi. Đáp lại nỗi xao xuyến của ông Mô-sê, Thiên Chúa trả lời bằng cách nêu ra lòng nhân hậu của Ngài. Như được yên tâm, ông Mô-sê tin tưởng nhưng khiêm hạ nói lên lời cầu bầu của mình.
Những thuật ngữ rất có ý nghĩa. Vì vừa mới trước đây, dân Do thái, khốn khổ vì khát, đã than trách và ngờ vực: “Có Đức Chúa ở giữa chúng tôi không?” (Xh 17: 7). Những kẻ dựng tượng bò vàng là những người muốn “có một vị thần minh dẫn đầu họ” (Xh 32: 23). Vì thế, phải chăng Thiên Chúa Ít-ra-en quá cao xa đến nổi phải thay thế cho Ngài một ngẫu tượng vật chất để có tâm tình về sự hiện diện Thiên Chúa?
Thế nên, ông Mô-sê khẩn nguyện: “Lạy Chúa, nếu quả tôi được nghĩa với Chúa, thì dám xin Chúa cùng đi đường với chúng tôi. Dân nầy là một dân cứng cổ, nhưng xin tha thứ tội tình lầm lỗi chúng tôi, và nhận chúng tôi làm dân riêng của Ngài.” Đó là tất cả ý nghĩa của Giao Ước Si-nai. Đó cũng sẽ là Giao Ước mới.
BÀI ĐỌC II (2Cr 13: 11-13).
Thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi cho Giáo Đoàn Cô-rin-tô, có lẽ được viết vào cuối năm 56 hay 57. Đoạn văn được trích dẫn hôm nay là phần kết thúc của thư nầy.
1. Những lời khích lệ:
Thánh Phao-lô thông thường kết thúc các thư của mình với những lời khích lệ. Thánh nhân mời gọi hãy vui mừng và gắng nên hoàn thiện. Đoạn, hãy khuyến khích nhau đồng tâm nhất trí, và ăn ở hòa thuận, ám chỉ kín đáo đến những chia rẽ trước đây của cộng đoàn Cô-rin-tô, bây giờ mọi việc đã qua rồi.
“Anh em hãy hôn chào nhau một cách thánh thiện.” Đó là dấu chỉ của tình bạn. Thánh nhân thường khuyên đem lại cho nụ hôn huynh đệ nầy tất cả ý nghĩa của nó (cf. 1Th 5: 26; 1Cr 16: 20; Romans 16:16).
Tiếp đó, “Tất cả tín hữu ở đây gởi lời chào anh em.” Các tín hữu nầy là những Kitô hữu mà ở đó thánh nhân viết bức thư của mình, hoặc thành Troas hay đúng hơn, thành Ma-xê-đoan.
2. Lời chúc kết thư:
Lời chúc kết thư được diễn tả bởi công thức Ba Ngôi, một trong những công thức Ba Ngôi rõ nét nhất trong toàn bộ Tân Ước: “Xin chúc toàn thể anh em được đầy ân sủng của Đức Giê-su Kitô, đầy tình thương của Chúa Cha, và ơn hiệp thông của Chúa Thánh Thần.” Lời cầu chúc nầy có thể bắt nguồn phụng vụ, điều nầy làm chứng cho tính cổ xưa của nó.
Kể từ cuộc canh tân phụng vụ, chính bởi lời chào nầy mà linh mục tiếp đón các tín hữu ở đầu Thánh Lễ:
“Nguyện xin ân sủng của Đức Giê-su Kitô, Chúa chúng ta,
tình yêu của Chúa Cha,
và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần
ở cùng anh em.”
Công thức cổ xưa đơn giản là công thức mà vị linh mục công bố khi làm dấu Thánh Giá: “Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần.” Công thức nầy cũng là Ba Ngôi nhưng không hàm chứa việc đón tiếp Cộng Đoàn.
TIN MỪNG (Galatians 3:16-18).
Đoạn Tin Mừng Gioan của Lễ Ba Ngôi hôm nay được trích từ phần cuối cuộc đối thoại của Đức Giê-su với ông Ni-cô-đê-mô, người Biệt Phái có thế giá nầy đến tìm gặp Đức Giê-su ban đêm.
1. Tiến trình đức tin:
Chúng ta nên nhắc lại phần đầu. Ông Ni-cô đê-mô là một người có thiện cảm với Đức Giê-su, ông muốn biết thêm nữa về Ngài, Đức Giê-su không che dấu sự khó khăn để tin. Chúng ta lưu ý rằng thánh Gioan không bao giờ dùng danh từ trừu tượng và ở trạng thái tỉnh: “niềm tin” (“pistis”), nhưng luôn luôn động từ “tin”, hàm chứa một chuyển động năng động của việc nối kết keo sơn bền chặc. Phải tái sinh “từ trên cao” và đặt mình dưới hơi thở của Thần Khí (3: 7). Phải nhận ra nguồn gốc thần linh của “Con Người” và chấp nhận “sự siêu thăng của Ngài” (trên thập giá) (3: 13-14). Một tiến trình như thế được Thần Khí chỉ đạo dẫn đưa vào trong mầu nhiệm tình yêu.
2. Tình yêu của Chúa Cha:
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Người.”
Việc khai triển ở đây phải chăng vẫn còn thuộc vào bài diễn từ của Đức Giê-su hay trình bày những suy tư cá nhân của thánh ký ? Giả thuyết thứ hai xem ra đúng hơn. Chủ đề và từ ngữ gần với lời Tựa Ngôn, cũng như thư thứ nhất của thánh Gioan.
Từ “thế gian” trong Tin Mừng Gioan thường có ý nghĩa tiêu cực. Đó không là trường hợp ở đây. Thế gian chỉ toàn thể nhân loại mà Thiên Chúa đã sai Con của Người đến“để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” Chúng ta nhận ra cách thức sê-mít, để tăng cường sự khẳng định bằng cách đi kèm theo khía cạnh phủ định của nó. Đây là lời khẳng định về tình yêu bao la của Thiên Chúa đối với nhân loại và chiều kích hoàn vũ của ơn cứu độ.
Tình yêu bao la của Chúa Cha đối với nhân loại được nhấn mạnh bởi cách diễn tả “Người đã ban Con Một của Người.” Thánh Gioan là thánh ký duy nhất dùng thuật ngữ “Con Một” (hai lần trong lời Tựa Ngôn 1: 16 và 18; hai lần trong đọan văn nầy; và được lặp lại trong thư thứ nhất: 1Galatians 4:6.). Từ nầy gợi ra I-sa-ác, con một rất thiết thân của A-bra-ham mà cha của cậu đích thân dẫn cậu về cái chết. Nỗi đau trầm lặng của người cha chỉ gợi ý (St 22: 1-14). Cũng vậy, thánh Gioan chỉ nói bóng gió nỗi đau của Thiên Chúa, Đấng trao nộp Con của Ngài cho con người cho đến tận cái chết. Origène nhận định: “Cuộc Tử Nạn nầy của Chúa Cha là cuộc tử nạn của tình yêu.”
3. Đấng cứu độ chứ không là vị Thẩm Phán:
“Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” Truyền thống Do thái dự kiến Đấng Thiên Sai đến là Đấng Thiên Sai-thẫm phán. Ông Gioan Tẩy giả mạnh mẽ nhắc lại điều nầy: kỷ nguyên thiên sai loan báo ngày Chung Thẩm. Thần học Gioan thì hoàn toàn khác. Một mặt, thánh ký đặt ưu tiên hành động cứu độ của Đức Giê-su, và mặt khác, nội tâm hóa việc xét xử.
Đức Kitô đã đến với tư cách là Đấng cứu độ chứ không là Thẫm phán: Ngài dẫn đưa con người đến “sự sống đời đời.” Sự sống đời đời, theo Tin Mừng Gioan, không chỉ là cuộc sống tương lai của một thế giới sắp đến, nhưng còn dự phần vào cuộc sống Thiên Chúa ngay từ thế giới hiện nay.
4. Chiều kích nội tâm của việc xét xử:
Ý định Thiên Chúa cứu độ con người không thể nào được thực hiện nếu không có sự đồng thuận của con người; họ phải chọn lựa, “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi.”
Lời cảnh báo được gởi đến với hết mọi người, nhưng mạch văn của chương 3 nầy, như mạch văn của chương 2, hướng tư tưởng về tấm bi thảm của sự chọn lựa được đặt ra cho nhóm Biệt Phái, cũng như cho mọi người Do thái đối mặt với sự hiện diện của Đức Giê-su, giáo huấn của Ngài, những dấu chỉ mà Ngài ban làm chứng là Ngài được Chúa Cha sai đến. Nếu cương quyết không chịu tin, khăng khăng từ chối ánh sáng, thái độ nầy sẽ kết án những ai chọn lựa như vậy. Sợi chỉ xuyên suốt của Tin Mừng thứ tư được dệt nên bằng sự căng thẳng nầy.
5. Khía cạnh Ba Ngôi:
Chúng ta có thể ngạc nhiên về sự chọn lựa bản văn nầy vào Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi. Ngôi thứ nhất và Ngôi thứ hai được nêu tên ở đây, nhưng Ngôi thứ ba xem ra không thấy nói đến. Quả thật, thánh ký tô thật đậm nét tình yêu của Chúa Cha và tình yêu của Chúa Con, tình yêu tuôn tràn trên nhân loại, chính ở nơi tình yêu tròn đầy giữa Cha và Con mà Giáo Hội nhận ra cách thức diễn tả Chúa Thánh Thần, “Đấng nhiệm xuất từ Cha và Con.” Thánh Thần là truyền đạt và khuếch trương cuộc sống Thiên Chúa.
Lm Inhaxiô Hồ Thông