Nhiều nhà chú giải Thánh Kinh cho là cảnh hiển dung này là một trong những sự kiện quan trọng nhất của Tân Ước, vì tuy không phải là chóp đỉnh, biến cố này thật sự tóm tắt tất cả mạc khải. Chúng ta thấy ở đây, Mô-sê và E-li-a, các phát ngôn viên của lề luật và ngôn sứ (tắt một lời các đại diện của Cựu Ước) giới thiệu đấng Ki-tô của Tin Mừng cho các môn đệ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an được coi là những ‘cột trụ’ của Giáo Hội theo lối diễn tả của Phao-lô trong thư gửi tín hữu Ga-lát, là những người có trách nhiệm rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo (Chú thích Mc 9,1tt trong ‘Lời Chúa Cho Mọi Người’). Nếu thật là như thế thì hiển dung đâu phải chỉ đơn thuần là một liệu pháp tâm lý đề vực dậy tinh thần các môn đệ trước cuộc khổ nạn đau thương đức Giê-su sẽ phải chịu tại Giê-ru-sa-lem. Ý nghĩa của nó chắc phải lớn hơn nhiều…; vì thế tôi phải dành thời giờ tìm hiểu thôi.
Vinh quang, hay diện mạo đích thực của Thiên Chúa là điều con người qua mọi thời đại và tôn giáo đều muốn kiếm tìm. Mô-sê và Ê-lia là hai nhân vật Cựu Ước đã được diễm phúc chớm thấy vinh quang đó tỏ lộ. Mô-sê trên định Si-nai khi lãnh tấm bia giới luật (xem Xuất Hành chương 19), và Ê-li-a trên đỉnh Khô-rếp trên đường trốn chạy khỏi sự truy đuổi của hoàng hậu I-de-ven (xem 1 Vua chương 19). Vinh quang Gia-vê mà hai ông được chứng kiến lại đã rất khác nhau: một đàng là ‘Đức Chúa ngự trong đám lửa mà xuống, khói bốc lên như khói lò lửa và cả núi rung chuyển mạnh… (Xh 19, 18), đàng khác là ‘Sau động đất là lửa, nhưng Đức Chúa cũng không ở trong lửa. Sau lửa là tiếng gió hiu hiu. Vừa nghe tiếng đó, ông Ê-li-a lấy áo choàng che mặt, rồi ra đứng ở của hang… (1 V 19, 12-13). Thế thì vinh quang mà đức Giê-su muốn hiển thị trong lần biến dạng này phải có gì rất khác. Chắc hẳn phải là một thứ vinh quang rất thực, vượt xa một ánh hào quang nhìn thấy được bằng mắt phàm. Hiển dung lần này có sự góp mặt của cả Mô-sê lẫn Ê-li-a, chắc hẳn phải vượt xa những lần tỏ vinh quang trong Cựu Ước.
Tác giả Lu-ca cho biết ‘hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem’ (Lc 9, 31), điều đó chứng tỏ vinh hiển mà các ông đã từng chứng kiến chưa hẳn là tột đỉnh; tột đỉnh vinh quang chính là cuộc xuất hành được đề cập tới. Đức Giê-su cũng hàm ý nói điều này khi căn dặn ba môn đệ trên đường xuống núi: “không được kể lại cho ai nghe các điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại”. Đúng như vậy, cuộc tử nạn, hay cuộc vượt qua Người sắp chịu mới chính là vinh quang đích thực, trong đó tình yêu cứu độ của Thiên Chúa được bộc lộc cách rực rỡ nhất. Nếu Thiên Chúa chính là tình yêu, thì vinh quang chói lọi không thể là điều gì khác hơn là nhân từ xót thương. Sau này, khi tới giờ ra đi chịu chết, chính đức Giê-su trong cầu nguyện với Cha đã không ngần ngại gọi giờ phút trọng đại đó là giờ Thiên Chúa tỏ lộ vinh quang Ngài, giờ Thiên Chúa được tôn vinh cách tuyệt đối. “Lạy Cha, giờ đã đến, xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha… xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” (Ga 17, 1.8).
Chính Mô-sê và E-li-a cũng hầu như còn đang mong đợi được thấy thứ vinh quang đó, vinh quang của Tân Ước. Và đức Giê-su thật sự mong các môn đệ Người, đặc biệt ba ông, loan truyền cho mọi người thứ vinh quang ‘xuất hành’ đó, hơn là chựng lại (làm ba lều) bên thứ vinh quang của diện mạo sáng láng và y phục trắng tinh. Phải chăng đây chính là cuộc chuyển biến quyết định từ Cựu Ước qua Tân Ước, từ vinh quang của quyền uy (lửa, động đất, loa vang dội…) qua vinh quang của tha thứ và cứu độ, từ một Gia-vê quyền phép qua một Chúa Cha của đức Ki-tô Giê-su đầy xót thương? Đối với các môn đệ gốc Do Thái, sự chuyển tiếp này đầy ngỡ ngàng và khó khăn. Các ông vẫn còn phải ‘bàn nhau xem câu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì.’ Và Đức Giê-su còn phải cất công giải thích nhiều lần nữa. Điều này sẽ mãi mãi, qua mọi thời đại, là vấn đề muôn thuở của niềm tin tuyệt đối, của phó thác không chút do dự… vì nó không theo bất cứ lô-gich hay lối suy nghĩ thông thường nào. Và sẽ không còn cách nào khác hơn là để mình bị hoàn toàn khuất phục bởi mạc khải thập giá của đức Giê-su: “Hãy vâng nghe lời Người!”
Mùa chay chính là thời gian để tôi vâng nghe và đón nhận vinh quang cứu độ của Thiên Chúa.
Lạy Chúa là đấng Cứu Độ của con! Con xin được như Phê-rô dựng lều, không phải để chiêm ngắm dung mạo hiển dung sáng láng, nhưng để say mê vinh quang cứu độ Chúa dành cho con. Chính Chúa đã chủ động kêu mời con ở lại trong tình yêu của Người, không những chỉ trong mùa chay thánh mà còn trong suốt cuộc sống dương thế, và mãi mãi trong hạnh phúc Quê Trời mai sau. Amen
Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SDB