Thiên Chúa có uy quyền trên cả sự chết lẫn sự sống

Chủ Nhật V Mùa Chay, Năm A

Bài đọc: Eze 37:12-14; Romans 8:8-11; John 11:1-45 (11:3-7, 17, 20-27, 33b-45).

 

Ai cũng mong được sống mãi, nhưng ai cũng phải đối diện với cái chết. Chết có phải là hết không? Trong lịch sử, đã có nhiều người cho chết là hết; nhưng đại đa số đều tin linh hồn bất tử vì linh hồn con người không được cấu tạo bằng chất liệu như thân xác. Nhưng những câu hỏi như: linh hồn đi đâu sau khi chết, linh hồn của kẻ lành và kẻ dữ có cùng chung một số phận, con người sẽ làm gì trong cuộc sống đời sau… chỉ tìm thấy câu trả lời thỏa đáng trong đạo Công Giáo.

Các bài học hôm nay chuyển hướng từ bầu khí Mùa Chay để hướng chúng ta tới bầu khí của sự sống lại và sự sống. Trong bài đọc I, trình thuật hôm nay là đoạn kết của “thị kiến ruộng xương khô.” Thiên Chúa có uy quyền tạo dựng và Ngài cũng có uy quyền tái tạo dựng. Ngài truyền cho ngôn sứ Ezekiel tuyên sấm trên các xương khô để chúng tháp nhập lại với nhau, có gân để giữ, có da để bọc; nhưng chưa có hơi thở để sống. Thiên Chúa cho chúng hơi thở và chúng trở thành những con người sống. Trong bài đọc II, thánh Phaolô trong chương 8 của Thư Rôma, so sánh hai lối sống theo xác thịt và theo thần khí. Lối sống làm nô lệ cho xác thịt chỉ đưa con người tới sự hủy diệt; nhưng lối sống theo thần khí sẽ làm cho con người được sống và sống muôn đời. Trong Phúc Âm, thánh Gioan tường thuật Chúa Giêsu làm một phép lạ chưa từng nghe nói tới. Ngài cho Lazarô sau khi đã chết 4 ngày được sống lại. Ngài cũng mặc khải cho con người chiều kích cánh chung hiện tại: “bất cứ ai sống và tin vào Ngài sẽ không bao giờ phải chết.”

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt cho các ngươi.

1.1/ Quan niệm của người Do-thái về Sheol: Danh từ này có nhiều nghĩa: huyệt mộ, vực sâu, nơi tăm tối, nơi ở của người chết… Quan niệm về Sheol của người Do-thái thay đổi theo thời gian. Thoạt đầu, người Do-thái tin Sheol là chỗ ở chung cho tất cả, vì mọi người đều phải chết (Psalm 89:47-48). Những người tin Thiên Chúa và giữ cẩn thận Lề Luật sẽ được Ngài chúc lành cho thịnh vượng, con đông, và sống lâu khi còn ở đời này; nhưng một khi từ giã cuộc đời, mọi người đều phải vào Sheol. Khi con người đã vào đó là không bao giờ có cơ hội được sống lại hay trở về nhà (Job 7:9-10). Tuy Sheol là nơi tăm tối, người Do-thái tin Thiên Chúa nhìn thấy Sheol và tất cả những người trong đó (Job 26:6, Psalm 139:8). Dần dần, quan niệm này biến đổi và Sheol trở thành nơi ở của những người gian ác và tội lỗi, những người đã quên Thiên Chúa (Psalm 9:17). Có lẽ quan niệm này biến đổi cùng lúc với quan niệm của người Do-thái về cuộc sống trường sinh.

Tác giả của một số Thánh Vịnh và Sách Ngôn Sứ ví cuộc sống khổ cực của dân Do-thái trong nơi lưu đày như đang ở trong Sheol, và việc được trở về đất Israel được ví như người được ra khỏi huyệt mộ: “Vì hồn con ngập tràn đau khổ, mạng sống con âm phủ gần kề, thân kể như đã vào phần mộ, ví tựa người kiệt sức còn chi! Con nằm đây giữa bao người chết, như các tử thi vùi trong mồ mả đã bị Chúa quên đi, và không được tay Ngài săn sóc” (Psalm 88:4-6).

1.2/ Chỉ có Thiên Chúa mới có uy quyền đưa con người ra khỏi Sheol: Đưa ra khỏi huyệt mộ, vực sâu, hay Sheol được nhắc đến nhiều lần trong Cựu Ước (Psalm 30:3,49:15, 71:20, 86:13, 88:4-6, Lam 3:54ff, Jon 2:3-7). Thiên Chúa có uy quyền giải thoát người ở trong Sheol khi họ kêu cầu Ngài (Psalm 116:3-6).

Trình thuật của Ezekiel, ngôn sứ nơi lưu đày, tiếp tục truyền thống này khi Ezekiel tuyên sấm: “Đức Chúa là Chúa Thượng phán như sau: Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt cho các ngươi, Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Israel.” Trình thuật này nằm trong bối cảnh của “thị kiến cánh đồng xương khô.” Trong chương 37, đã có 2 lần Thiên Chúa bảo Ezekiel tuyên sấm: lần thứ nhất trên xương để chúng nhập vào nhau, lần thứ hai trên gió để chúng cung cấp hơi thở và làm cho các thân xác được sống lại.

Nhưng trong trình thuật ngắn hôm nay, Thiên Chúa nói: “Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh.” Một người có thể nhận ra ngay tác giả muốn ám chỉ những gì Thiên Chúa đã làm khi tạo dựng con người trong Sách Sáng Thế 2:7. Nhưng đâu là sự khác biệt giữa sự tuyên sấm lần thứ hai của Ezekiel và lần này? Rất khó giải thích, vì trong tiếng Do-thái, họ chỉ có một chữ ruah dùng cho gió, hơi thở, thần khí của một người, và Thánh Thần.

Điều quan trọng là khi nhìn thấy các điều này xảy ra, “bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, Ta đã phán là Ta làm. Đó là sấm ngôn của Đức Chúa.” Khi con người nhìn thấy Thiên Chúa mở huyệt và đưa con người ra khỏi huyệt, họ sẽ nhận ra Ngài là Đức Chúa; vì không một ai có thể làm được điều này. Điều này có thể xem là đã được thực hiện khi Thiên Chúa cho các người Do-thái được hồi hương từ các nơi lưu đày; nhưng đa số các thánh Giáo Phụ cho là Cuộc Phán Xét trong Ngày Tận Thế, khi hồn nhập vào thân xác để chịu phán xét.

2/ Bài đọc II: Lối sống theo Thần Khí và lối sống theo xác thịt

Chương 8 của Thư Rôma phải được đọc chung với chương 6-7. Lý do là vì con người đã được Đức Kitô giải phóng để khỏi làm nô lệ cho tội lỗi, Lề Luật, và sự chết để sống theo Thần Khí. Nhiều người hiểu lầm thánh Phaolô là ngài quảng bá tư tưởng: con người chỉ cần đặt niềm tin vào Đức Kitô là được cứu độ và không cần làm gì cả. Trong chương 8, thánh Phaolô cắt nghĩa con người được Đức Kitô giải phóng khỏi phải làm nô lệ cho tính xác thịt, để được tự do sống theo Thần Khí.

2.1/ Sống theo tính xác thịt: là sống theo các cảm xúc của con người như sự tham lam của con mắt, sự ham muốn của trái tim, và mọi đam mê dục vọng. Người sống theo tính xác thịt chẳng khác loài cầm thú, vì chúng hành động theo bản năng tự nhiên; nhưng con người không được phép sống như thế, vì ngoài thân xác, Thiên Chúa còn ban cho con người có linh hồn, trí tuệ, và ý chí để điều khiển các quan năng của xác thịt. Thánh Phaolô diễn tả điều này như sau: “Nhưng anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em.” Thần Khí của Thiên Chúa cũng là Thần Khí của Đức Kitô ngự trong các tín hữu để hướng dẫn và ban sức mạnh để các tín hữu có thể sống theo sự thật, những gì Đức Kitô dạy bảo: “Những ai bị tính xác thịt chi phối thì không thể vừa lòng Thiên Chúa.”

2.2/ Sống theo thần khí của Đức Kitô: Thánh Phaolô liệt kê ba lợi điểm của những người sống theo Thần Khí:

(1) Thần Khí làm cho con người được sống: Sống theo thần khí mới là sống thật, sống theo tính xác thịt là làm nô lệ cho tội lỗi và hậu quả là cái chết.

(2) Thần Khí làm cho con người được trở nên công chính: bằng tin và thực hành những gì Đức Kitô truyền dạy. Lề Luật không có sức mạnh làm cho con người nên công chính.

(3) Thần Khí sẽ làm cho con người sống lại từ cõi chết: “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.”

3/ Phúc Âm: “Anh Lazarô, hãy ra khỏi mồ!”

Trình thuật hôm nay, chương 11, được đặt trong bối cảnh Chúa Giêsu sắp hoàn tất cuộc đời rao giảng trên dương thế của Ngài. Theo cấu trúc của Tin Mừng Gioan, bắt đầu Cuộc Thương Khó là chương 13. Trong chương 11, Ngài cho Lazarô sống lại. Đây là một yếu tố quyết liệt cho cuộc đời rao giảng của Ngài trước khi bắt đầu Cuộc Thương Khó. Ngài muốn cho mọi người thấy rõ nếu Ngài có uy quyền làm cho kẻ chết sống lại, Ngài cũng có thể tự mình sống lại như Ngài đã báo trước cho các môn đệ. Sự chết không có một sức mạnh chi trên Ngài cả. Điều này cũng có tác động mạnh trên khán giả vì họ cũng là những người ham sống và mong muốn được sống đời đời.

Chương 12 là phản ứng của con người trước phép lạ Ngài làm cho Lazarô sống lại, và đó là lý do quyết liệt để những người trong Thượng Hội Đồng của người Do-thái quyết định án tử cho Ngài (John 11:53) và cho cả Lazarô (John 12:10-11), vì tại anh mà nhiều người Do-thái đã bỏ họ và tin theo Chúa Giêsu. Các người Pharisees đã ghen tị khi thấy ảnh hưởng của Chúa Giêsu trên dân chúng nên họ bảo nhau: “Các ông thấy chưa: các ông chẳng làm nên trò trống gì cả! Kìa thiên hạ theo ông ấy hết!” (John 12:19). Chúng ta có thể phân tích trình thuật thành 4 hồi như sau.

3.1/ Chúa Giêsu với các môn đệ: Tại sao khi nghe tin Lazarô đau nặng, Chúa Giêsu không đi Bethany ngay, nhưng còn chờ hai ngày nữa mới đi? Có ý kiến cho rằng Chúa Giêsu muốn Lazarô thực sự chết và bắt đầu có mùi, để người chứng kiến không nghi ngờ về quyền năng làm cho sống lại của Ngài. Có ý kiến cho rằng Chúa Giêsu không muốn làm vì ảnh hưởng của người khác, như khi Đức Mẹ yêu cầu tại tiệc cưới Cana (John 2:1-11) hay khi các anh em Ngài thúc giục Ngài đi Jerusalem (John 7:1-10). Chúa Giêsu muốn Ngài làm khi nào Ngài muốn. Cả hai ý kiến đều có thể xảy ra.

Trong Gioan không có 3 lần tường thuật phản ứng của các môn đệ khi Chúa Giêsu báo trước cho các ông về những gì sắp xảy ra cho Ngài tại Jerusalem như trong Tin Mừng Nhất Lãm. Đây là lần duy nhất các môn đệ ngăn cản Chúa Giêsu trong Gioan khi Chúa Giêsu muốn trở lại miền Judah: “Thưa Thầy, mới đây người Do-thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đến đó sao?”

Ban ngày của người Do-thái có 12 giờ, được tính từ lúc bình minh (6 AM) tới hoàng hôn (6 PM), ban đêm được chia thành canh, và là giờ nghỉ ngơi, chứ không phải để làm việc. Lý do là họ không có đèn điện như chúng ta ngày nay. Có nhiều sự thật chứa đựng trong câu nói kế tiếp của Chúa Giêsu với các môn đệ: “Ban ngày chẳng có mười hai giờ đó sao? Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng mặt trời. Còn ai đi ban đêm, thì vấp ngã vì không có ánh sáng nơi mình!” Thứ nhất, cuộc đời con người đã được ấn định bởi Thiên Chúa. Nếu con người muốn làm gì thì hãy làm đi kẻo trễ; khi Chúa muốn gọi con người về, con người không thể xin hoãn để hoàn tất điều muốn làm. Câu này cũng tương tự như câu Chúa nói với các môn đệ tuần trước (John 9:4). Thứ hai, con người có đủ giờ để làm việc mà không cần phải vội vã. Đừng bao giờ để nước đến chân mới nhảy. Sau cùng, con người phải biết lợi dụng thời giờ để sinh ích cho mình và cho tha nhân. Đừng lười biếng hay phung phí thời giờ.

Chúa Giêsu có thói quen dùng chữ có hai ý nghĩa trong Gioan; ví dụ: sinh bởi ơn trên hay sinh một lần nữa (John 3:3-8); nước uống hay nước hằng sống (John 4:10-15); và trong trình thuật hôm nay: koimasthai vừa có nghĩa “ngủ” vừa có nghĩa “chết, ngủ muôn đời.” Các môn đệ hiểu theo nghĩa thứ nhất, nên họ nói với Người: “Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc được, anh ấy sẽ khoẻ lại.” Bấy giờ Người mới nói rõ: “Lazarô đã chết. Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin. Thôi, nào chúng ta đến với anh ấy.” Ông Thomas, gọi là Didymus, nói với các bạn đồng môn: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy!”

3.2/ Chúa Giêsu với Martha: Trong Tin Mừng Nhất Lãm cũng như trong Gioan, Martha biểu lộ tâm tính của một người luôn nhanh nhẩu hoạt động; trong khi Maria là người luôn thâm trầm hướng về đời sống nội tâm. Nghe tin Chúa Giêsu đến, cô nhanh nhẩu chạy ra đón Ngài và nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy.” Martha tin Chúa Giêsu có uy quyền chữa bệnh. Còn việc Chúa Giêsu làm cho người chết sống lại, có lẽ cô chưa bao giờ nghĩ tới.

(1) Cánh chung đời sau: Người Do-thái sống thời Chúa Giêsu đã có niềm tin vào sự sống đời sau. Điều này được biểu tỏ trong Sách Daniel và II Maccabees. Vì thế, khi Chúa Giêsu nói: “Em chị sẽ sống lại!” Martha nghĩ Chúa Giêsu nói về cánh chung đời sau, nên thưa: “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết.”

(2) Cánh chung hiện tại: Chúa Giêsu cắt nghĩa: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?” Theo Chúa Giêsu, con người không cần phải đợi tới đời sau mới được hưởng sự sống đời đời. Nếu họ tin vào Ngài, họ đã bắt đầu được sống đời đời ngay từ cuộc đời này, cái chết chỉ là một sự thay đổi tạm thời từ đời này sang đời sau, trong khi mối liên hệ của họ với Thiên Chúa không gì có thể thay đổi được. Khi một người không sợ ngay cả cái chết, lúc đó họ mới thực sự sống, và sống tròn đầy.

3.3/ Chúa Giêsu với Maria: Tục lệ của người Do-thái là khóc thương người chết trong vòng từ 7 ngày cho đến một tháng, tùy sự liên hệ và sự thương tiếc. Có lẽ vì không muốn cho quan khách biết việc Chúa Giêsu đến hay đã được dặn bởi Chúa Giêsu, Martha về nhà và nói nhỏ với Maria: “Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy!” Nghe vậy, cô Maria vội đứng lên và đến với Đức Giêsu. Tuy vậy, những người Do-thái đang ở trong nhà với cô Maria để chia buồn, thấy cô vội vã đứng dậy đi ra, liền đi theo, tưởng rằng cô ra mộ khóc em.

(1) Phản ứng của Maria: Giống như chị Martha biểu lộ lòng thương em, khi em Maria vừa thấy Chúa Giêsu, liền phủ phục dưới chân Người và nói: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết.” Thấy cô khóc, và những người Do-thái đi với cô cũng khóc.

(2) Phản ứng của Chúa Giêsu: Khi chứng kiến nỗi khổ đau của Maria và thân hữu của cô, trình thuật kể “Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến” và “Ngài khóc.” Hai động từ Hy-lạp dùng để diễn tả cảm xúc của Chúa Giêsu là embrimasthaitarassein. Động từ thứ nhất xảy ra 5 lần trong Tân Ước: 3 lần trong Tin Mừng Nhất Lãm (Mark 1:43,14:5; Matthew 9:30), có nghĩa là “ngăn cấm” một người không cho ai được biết việc gì đã xảy ra cho họ; hai lần trong Gioan (John 11:33,38) được dịch là “bị cảm nhận sâu xa” bởi thần khí, vì điều ngăn cấm đó xảy ra cho chính mình. Động từ thứ hai xảy ra 13 lần trong Tân Ước, hai lần trong Gioan (5:4, 7) có nghĩa “khuấy động;” 4 lần khác (11:33, 12:27, 13:21, 14:1) có nghĩa “bị thử thách.”

Có một số người không tin Thiên Chúa có thể bị khuấy động và thử thách bởi con người (Stoics); nhưng theo tác giả Thư Do-thái, Chúa Giêsu mặc lấy thân xác con người có nghĩa Ngài trở nên giống chúng ta về mọi phương diện chỉ trừ tội lỗi. Ngài đồng cảm với con người, và rất nhiều lần trong Tin Mừng diễn tả Chúa Giêsu “có hay tỏ lòng thương xót” cho con người. Ngài yêu 3 chị em Martha, và Ngài đồng cảm với họ tới nỗi Ngài đã bật khóc khi chứng kiến nỗi đau khổ của họ.

3.4/ Chúa Giêsu với Lazarô: Mộ của người chết bên Do-thái thời Chúa Giêsu không phải là những ngôi mộ riêng biệt, nhưng là những nhà mồ. Tùy vào số người trong gia đình mà nhà mồ được chia thành nhiều ngăn, nó có hình dạng giống như phòng ngủ với giường tầng hai bên và một lối đi chính giữa. Lối vào là một tảng đá có thể khép lại như cửa kéo. Người chết được cuốn khăn chung quanh chân tay, mặt được cuốn riêng, rồi cả thân thể được ướp thuốc thơm và bọc trong một bao vải. Thi thể người chết sẽ được đặt lên giường và để tự nó thối rữa đi, xương cốt còn lại sẽ được thu gọn để lấy chỗ chôn những người khác.

(1) Niềm tin của Martha: Đức Giêsu truyền: “Đem phiến đá này đi.” Cô Martha là chị người chết liền nói: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày.” Đức Giêsu bảo: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” Martha có thể nghĩ Chúa Giêsu muốn nhìn mặt em mình lần cuối, nhưng mặt đã bị băng kín và đã có mùi rồi. Martha có thể chỉ tin uy quyền của Chúa Giêsu cách giới hạn trong việc chữa bệnh, chị không tin Chúa Giêsu có uy quyền làm cho em chị đã chết 4 ngày được sống lại. Chúa Giêsu nhấn mạnh niềm tin vào Thiên Chúa làm được mọi sự, ngay cả việc làm cho người đã chết được sống lại.

(2) Niềm tin của Chúa Giêsu: Ngài biết Chúa Cha luôn nhận lời Ngài cầu xin dù bất cứ sự gì. Mục đích của việc cho Lazarô sống lại là để khơi mào đức tin của dân chúng đang đứng chung quanh Ngài, chứ không phải để làm vinh danh cá nhân Ngài. Chúa Giêsu muốn dân chúng tin Ngài là Đấng Messiah, được sai đến bởi Chúa Cha. Cầu nguyện xong, Người kêu lớn tiếng: “Anh Lazarô, hãy ra khỏi mồ!” Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn. Đức Giêsu bảo: “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi.” Chúng ta thử tưởng tượng chính mình được chứng kiến cảnh tượng này và toàn thân sẽ toát lạnh vì sợ hãi. Xưa nay, chưa từng có ai được chứng kiến cảnh người đã chết trong mộ 4 ngày nhờ một lệnh truyền được bước ra khỏi mộ.

(3) Niềm tin của những người Do-thái: Trong số những người Do-thái đến thăm cô Maria và được chứng kiến việc Đức Giêsu làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người. Nếu Ngài không bởi Thiên Chúa mà đến, Ngài sẽ không thể làm được một phép lạ lớn lao như vậy.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Đức Kitô muốn chúng ta sống theo sự hướng dẫn của Thánh Thần, để Ngài dẫn chúng ta đến sự thật trọn hảo. Chúng ta đừng sống theo những đam mê của xác thịt.

– Thiên Chúa có quyền trên sự sống và sự chết. Chúng ta hãy đặt niềm tin tưởng vào Ngài và đừng sợ cái chết, nó chỉ là sự thay đổi tạm thời trước khi chúng ta được sống muôn đời với Ngài.

LM. Anthony Đinh Minh Tiên, OP

Xin Nhấn vào đây để nghe Bài Giảng [audio:http://loinhapthe.com/LCHN/audio/Chu%20Nhat%20V%20Mua%20ChayA.mp3] hoặc tải xuống

Nguồn: loinhapthe.com

Romans 8:8-11
View in: NAB
8And they who are in the flesh, cannot please God.
9But you are not in the flesh, but in the spirit, if so be that the Spirit of God dwell in you. Now if any man have not the Spirit of Christ, he is none of his.
10And if Christ be in you, the body indeed is dead, because of sin; but the spirit liveth, because of justification.
11And if the Spirit of him that raised up Jesus from the dead, dwell in you; he that raised up Jesus Christ from the dead, shall quicken also your mortal bodies, because of his Spirit that dwelleth in you.
John 11:1-45
View in: NAB
1Now there was a certain man sick, named Lazarus, of Bethania, of the town of Mary and Martha her sister.
2(And Mary was she that anointed the Lord with ointment, and wiped his feet with her hair: whose brother Lazarus was sick.)
3His sisters therefore sent to him, saying: Lord, behold, he whom thou lovest is sick.
4And Jesus hearing it, said to them: This sickness is not unto death, but for the glory of God: that the Son of God may be glorified by it.
5Now Jesus loved Martha, and her sister Mary, and Lazarus.
6When he had heard therefore that he was sick, he still remained in the same place two days.
7Then after that, he said to his disciples: Let us go into Judea again.
8The disciples say to him: Rabbi, the Jews but now sought to stone thee: and goest thou thither again?
9Jesus answered: Are there not twelve hours of the day? If a man walk in the day, he stumbleth not, because he seeth the light of this world:
10But if he walk in the night, he stumbleth, because the light is not in him.
11These things he said; and after that he said to them: Lazarus our friend sleepeth; but I go that I may awake him out of sleep.
12His disciples therefore said: Lord, if he sleep, he shall do well.
13But Jesus spoke of his death; and they thought that he spoke of the repose of sleep.
14Then therefore Jesus said to them plainly: Lazarus is dead.
15And I am glad, for your sakes, that I was not there, that you may believe: but let us go to him.
16Thomas therefore, who is called Didymus, said to his fellow disciples: Let us also go, that we may die with him.
17Jesus therefore came, and found that he had been four days already in the grave.
18(Now Bethania was near Jerusalem, about fifteen furlongs off.)
19And many of the Jews were come to Martha and Mary, to comfort them concerning their brother.
20Martha therefore, as soon as she heard that Jesus had come, went to meet him: but Mary sat at home.
21Martha therefore said to Jesus: Lord, if thou hadst been here, my brother had not died.
22But now also I know that whatsoever thou wilt ask of God, God will give it thee.
23Jesus saith to her: Thy brother shall rise again.
24Martha saith to him: I know that he shall rise again, in the resurrection at the last day.
25Jesus said to her: I am the resurrection and the life: he that believeth in me, although he be dead, shall live:
26And every one that liveth, and believeth in me, shall not die for ever. Believest thou this?
27She saith to him: Yea, Lord, I have believed that thou art Christ the Son of the living God, who art come into this world.
28And when she had said these things, she went, and called her sister Mary secretly, saying: The master is come, and calleth for thee.
29She, as soon as she heard this, riseth quickly, and cometh to him.
30For Jesus was not yet come into the town: but he was still in that place where Martha had met him.
31The Jews therefore, who were with her in the house, and comforted her, when they saw Mary that she rose up speedily and went out, followed her, saying: She goeth to the grave to weep there.
32When Mary therefore was come where Jesus was, seeing him, she fell down at his feet, and saith to him: Lord, if thou hadst been here, my brother had not died.
33Jesus, therefore, when he saw her weeping, and the Jews that were come with her, weeping, groaned in the spirit, and troubled himself,
34And said: Where have you laid him? They say to him: Lord, come and see.
35And Jesus wept.
36The Jews therefore said: Behold how he loved him.
37But some of them said: Could not he that opened the eyes of the man born blind, have caused that this man should not die?
38Jesus therefore again groaning in himself, cometh to the sepulchre. Now it was a cave; and a stone was laid over it.
39Jesus saith: Take away the stone. Martha, the sister of him that was dead, saith to him: Lord, by this time he stinketh, for he is now of four days.
40Jesus saith to her: Did not I say to thee, that if thou believe, thou shalt see the glory of God?
41They took therefore the stone away. And Jesus lifting up his eyes said: Father, I give thee thanks that thou hast heard me.
42And I knew that thou hearest me always; but because of the people who stand about have I said it, that they may believe that thou hast sent me.
43When he had said these things, he cried with a loud voice: Lazarus, come forth.
44And presently he that had been dead came forth, bound feet and hands with winding bands; and his face was bound about with a napkin. Jesus said to them: Loose him, and let him go.
45Many therefore of the Jews, who were come to Mary and Martha, and had seen the things that Jesus did, believed in him.
Psalm 89:47-48
View in: NAB
47How long, O Lord, turnest thou away unto the end? shall thy anger burn like fire?
48Remember what my substance is for hast thou made all the children of men in vain?
Job 7:9-10
View in: NAB
9As a cloud is consumed, and passeth away: so he that shall go down to hell shall not come up.
10Nor shall he return my more into his house, neither shall his place know him any more.
Job 26:6
View in: NAB
6Hell is naked before him, and there is no covering for destruction.
Psalm 139:8
View in: NAB
8If I ascend into heaven, thou art there: if I descend into hell, thou art present.
Psalm 9:17
View in: NAB
17The Lord shall be known when he executeth judgments: the sinner hath been caught in the works of his own hands.
Psalm 88:4-6
View in: NAB
4For my soul is filled with evils: and my life hath drawn nigh to hell.
5I am counted among them that go down to the pit: I am become as a man without help,
6Free among the dead. Like the slain sleeping in the sepulchres, whom thou rememberest no more: and they are cast off from thy hand.
Psalm 30:3,49
View in: NAB
3O Lord my God, I have cried to thee, and then hast healed me.
Psalm 116:3-6
View in: NAB
3The sorrows of death have encompassed me: and the perils of hell have found me. I met with trouble and sorrow:
4And I called upon the name of the Lord. O Lord, deliver my soul.
5The Lord is merciful and just, and our God sheweth mercy.
6The Lord is the keeper of little ones: I was little and he delivered me.
John 11:53
View in: NAB
53From that day therefore they devised to put him to death.
John 12:10-11
View in: NAB
10But the chief priests thought to kill Lazarus also:
11Because many of the Jews, by reason of him, went away, and believed in Jesus.
John 12:19
View in: NAB
19The Pharisees therefore said among themselves: Do you see that we prevail nothing? behold, the whole world is gone after him.
John 2:1-11
View in: NAB
1And the third day, there was a marriage in Cana of Galilee: and the mother of Jesus was there.
2And Jesus also was invited, and his disciples, to the marriage.
3And the wine failing, the mother of Jesus saith to him: They have no wine.
4And Jesus saith to her: Woman, what is that to me and to thee? my hour is not yet come.
5His mother saith to the waiters: Whatsoever he shall say to you, do ye.
6Now there were set there six waterpots of stone, according to the manner of the purifying of the Jews, containing two or three measures apiece.
7Jesus saith to them: Fill the waterpots with water. And they filled them up to the brim.
8And Jesus saith to them: Draw out now, and carry to the chief steward of the feast. And they carried it.
9And when the chief steward had tasted the water made wine, and knew not whence it was, but the waiters knew who had drawn the water; the chief steward calleth the bridegroom,
10And saith to him: Every man at first setteth forth good wine, and when men have well drunk, then that which is worse. But thou hast kept the good wine until now.
11This beginning of miracles did Jesus in Cana of Galilee; and manifested his glory, and his disciples believed in him.
John 7:1-10
View in: NAB
1After these things Jesus walked in Galilee; for he would not walk in Judea, because the Jews sought to kill him.
2Now the Jews' feast of tabernacles was at hand.
3And his brethren said to him: Pass from hence, and go into Judea; that thy disciples also may see thy works which thou dost.
4For there is no man that doth any thing in secret, and he himself seeketh to be known openly. If thou do these things, manifest thyself to the world.
5For neither did his brethren believe in him.
6Then Jesus said to them: My time is not yet come; but your time is always ready.
7The world cannot hate you; but me it hateth: because I give testimony of it, that the works thereof are evil.
8Go you up to this festival day, but I go not up to this festival day: because my time is not accomplished.
9When he had said these things, he himself stayed in Galilee.
10But after his brethren were gone up, then he also went up to the feast, not openly, but, as it were, in secret.
John 9:4
View in: NAB
4I must work the works of him that sent me, whilst it is day: the night cometh, when no man can work.
John 3:3-8
View in: NAB
3Jesus answered, and said to him: Amen, amen I say to thee, unless a man be born again, he cannot see the kingdom of God.
4Nicodemus saith to him: How can a man be born when he is old? can he enter a second time into his mother's womb, and be born again?
5Jesus answered: Amen, amen I say to thee, unless a man be born again of water and the Holy Ghost, he cannot enter into the kingdom of God.
6That which is born of the flesh, is flesh; and that which is born of the Spirit, is spirit.
7Wonder not, that I said to thee, you must be born again.
8The Spirit breatheth where he will; and thou hearest his voice, but thou knowest not whence he cometh, and whither he goeth: so is every one that is born of the Spirit.
John 4:10-15
View in: NAB
10Jesus answered, and said to her: If thou didst know the gift of God, and who he is that saith to thee, Give me to drink; thou perhaps wouldst have asked of him, and he would have given thee living water.
11The woman saith to him: Sir, thou hast nothing wherein to draw, and the well is deep; from whence then hast thou living water?
12Art thou greater than our father Jacob, who gave us the well, and drank thereof himself, and his children, and his cattle?
13Jesus answered, and said to her: Whosoever drinketh of this water, shall thirst again; but he that shall drink of the water that I will give him, shall not thirst for ever:
14But the water that I will give him, shall become in him a fountain of water, springing up into life everlasting.
15The woman saith to him: Sir, give me this water, that I may not thirst, nor come hither to draw.
Mark 1:43,14
View in: NAB
14And after that John was delivered up, Jesus came into Galilee, preaching the gospel of the kingdom of God,
43And he strictly charged him, and forthwith sent him away.
Matthew 9:30
View in: NAB
30And their eyes were opened, and Jesus strictly charged them, saying, See that no man know this.
John 11:33,38
View in: NAB
33Jesus, therefore, when he saw her weeping, and the Jews that were come with her, weeping, groaned in the spirit, and troubled himself,
38Jesus therefore again groaning in himself, cometh to the sepulchre. Now it was a cave; and a stone was laid over it.