Chúa Nhật 29 Thường Niên Năm C
Luca 18,1-8
Đối với Đức Giêsu, sự trợ giúp của Thiên Chúa là chuyện tuyệt đối chắc chắn, bởi vì quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa là những thực tại tuyệt đối chắc chắn.
1.- Ngữ cảnh
Sau khi đã trả lời câu hỏi của người Pharisêu về biến cố Nước Thiên Chúa đến, Đức Giêsu ngỏ lời với các môn đệ để dạy họ về ngày Con Người tỏ mình ra (Lc 17,22-37). Có những từ hoặc câu được dùng làm móc liên kết các câu văn với nhau: động từ “[tôi] đến”, được dùng ở c. 20a (“đến”) và 22b (“sẽ đến”); hai câu tương tự: “«Ở đây này!» hay «Ở kia kìa»!” (c. 21a) và “Người ở kia kìa! hay Người ở đây này!” (c. 23b).
Ngay sau lời giáo huấn mang tính cánh chung của Đức Giêsu về [các] ngày của Con Người, tác giả Lc thêm một dụ ngôn để minh định điều Người đã nói, đó là Dụ ngôn Quan tòa bất chính (18,1-8).
Cũng như có một phương diện trong lối xử sự của người quản lý bất lương được đề ra như điển hình cho lối xử sự của Kitô hữu (16,1-8a), ở đây một quan tòa bất chính được dùng như một biểu tượng của Cha trên trời. Tuy nhiên, để độc giả khỏi hiểu sai hướng, bản văn có thêm cc. 7-8a giúp điều chỉnh hình ảnh của Thiên Chúa nếu như đã bị hiểu méo mó.
Chúng ta có thể đọc Hc 35,12-20 và coi đoạn này như là bối cảnh của dụ ngôn Tin Mừng.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Câu mở: Mục tiêu Đức Giêsu nhắm khi giảng dạy (18,1);
2) Dụ ngôn Quan tòa bất chính và bà góa quấy rầy (18,2-5):
3) Biến một chi tiết của dụ ngôn thành ẩn dụ (18,6-8a):
– Câu chuyển mạch (c. 6),
– Cách xử sự của Thiên Chúa (cc. 7-8a);
4) Biến cả dụ ngôn thành ẩn dụ (18,8b).
3.- Vài điểm chú giải
– phải cầu nguyện luôn (1): Từ “luôn” được dịch từ Hy Lạp pantote có nghĩa là “trong mọi tình huống, bất kể hoàn cảnh thế nào”. Đây không phải chỉ là một nhân đức hay là một bổn phận, mà là một sự cần thiết trong chương trình của Thiên Chúa (HL. dei).
– nản chí (1): Động từ Hy Lạp egkakeô có nghĩa gốc là “ở trong một con đường xấu”, từ đó có nghĩa là “chán chường; buông xuôi”.
– một bà góa (3): Hình ảnh của bà góa trong bản văn phù hợp với hình ảnh Cựu Ước: thường các bà không được xử công bình (x. Xh 22,22-24; Đnl 10,18; 24,17; Ml 3,5; R 1,20-21; Ac 1,1; Is 54,4; Tv 68,5). Lưu ý là truyền thống Lc (Lc-Cv) nói nhiều đến các bà góa (Lc 2,37; 5,25-26; 7,12; 20,47; 21,2-3; Cv 6,1; 9,39.41).
– Bà này đã nhiều lần đến (3): Động từ êrcheto ở thì vị hoàn (imperfect) cho biết bà đã đến liên tục và còn đến. Bởi vì tình trạng của bà là tuyệt vọng, bà chỉ còn vũ khí cuối cùng là kiên trì.
– xin ngài minh xét cho tôi khỏi tay đối phương (3): Bà không xin quan toà trừng phạt đối phương, nhưng xin ông minh định quyền lợi của bà.
– kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc (5): Động từ hypôpiazein có nghĩa là “đánh dưới mắt” (ngôn ngữ quyền Anh); vả, tát”, từ đó có nghĩa là “gây phiền hà, dằn vặt”.
– quan toà bất chính (6): “Bất chính” là từ ngữ đánh giá lối cư xử trước đây của ông, chứ không không phải là đánh giá về quyết định của ông đối với vụ việc của bà góa (x. 16,8a: “người quản lý bất lương”).
– nói đó! (6): Kết luận này chuyển sự chú ý đi từ bà góa sang cách xử sự và suy nghĩ của ông quan tòa. Độc giả được gợi ý để hiểu ngầm: Phương chi Thiên Chúa! Ngài sẽ đáp ứng lời thỉnh cầu tha thiết của con người khi họ kêu cầu Ngài.
– những kẻ Người đã tuyển chọn (7): Từ ngữ “kẻ được [Thiên Chúa] tuyển chọn” có một lịch sử dài trong Kinh Thánh, với ý nghĩa tổng quát là những kẻ được Thiên Chúa để riêng ra vì Ngài yêu thương họ, tức là vô điều kiện, không hề bị ép buộc, hoàn toàn tự do. Từ này đặc biệt có liên hệ với thời bách hại.
– lòng tin trên mặt đất (8): nghĩa là lòng tin gợi hứng cho lời cầu nguyện tha thiết. Câu hỏi này cần được liên kết với lời mở ở c. 1.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Câu mở: Mục tiêu Đức Giêsu nhắm khi giảng dạy (1)
Trước đây (x. Lc 11,1-13), khi các môn đệ thỉnh cầu, Đức Giêsu đã dạy các ông Kinh Lạy Cha, và nhấn mạnh rằng Thiên Chúa còn sẵn sàng chấp nhận lời con cái Ngài kêu xin hơn là các người cha trần thế. Ở chương 11, tác giả Lc đề cập đến việc cầu nguyện cá nhân. Nhưng nội dung của câu mở (Lc 18,1) ở đây lại nói trực tiếp đến việc kiên trì cầu nguyện, chứ không nói đến sự tin tưởng là Thiên Chúa sẽ đáp lời ta xin, nên để đón nhận được bài học, chúng ta cần hiểu ngữ cảnh bản văn đang suy ngẫm.
Bản văn Lc 17,20-37 kết thúc chương 17 trả lời cho hai câu hỏi “Khi nào Nước Thiên Chúa đến?” và “Nước ấy đến ở đâu?”. Vậy lời dạy của Đức Giêsu về việc cầu nguyện liên tục và không được nản chí là nhằm có được tư thế sẵn sàng cho biến cố chung cuộc, Nước Thiên Chúa đến. Chính động từ egkakeô, “chán chường; buông xuôi”, được dùng ở đây (xem thêm Lc 17,20; 21,36) cũng như trong các Thư Phaolô (2 Cr 4,1; Gl 6,9; x. Ep 3,13; 2 Tx 3,13) thuộc về bối cảnh cánh chung (Ngày Quang lâm). Do đó, ở đây có thể hiểu là Đức Giêsu muốn khuyên bảo các môn đệ: trong thời gian này là thời gian chờ đợi Người trở lại, thời gian đầy thử thách, các ông không được chểnh mảng hay bỏ mất việc cầu nguyện, vì bất cứ lý do gì. Đây là một sự cần thiết (chứ không phải là một sự chọn lựa tùy nghi), liên tục (“luôn luôn”, chứ không thỉnh thoảng) và “không được nản chí” (phải kiên trì chứ không được chán nản buông xuôi).
* Dụ ngôn Quan tòa bất chính và bà góa quấy rầy (2-5)
Bây giờ Đức Giêsu kể một dụ ngôn nhằm cho thấy rằng các môn đệ có thể tin tưởng vô điều kiện vào Thiên Chúa, là chắc chắn Ngài chấp nhận lời các ông cầu nguyện, cho dù sự chấp nhận không xảy ra ngay và các ông cứ phải lặp lại nhiều lần lời cầu nguyện.
Tuy nhiên, nhân vật đầu tiên được nói đến lại không phải là bà góa đang gặp khó khăn, mà là ông quan tòa. Nơi chốn mang tính tổng quát: “Trong một thành kia”, nhằm nêu bật đặc tính điển hình. Còn ông quan toà thì tỏ ra độc lập và tự phụ; ông chỉ biết chính ông, lợi lộc của ông và sự thoải mái của riêng ông mà thôi. Ông không hề kính trọng Thiên Chúa, chẳng sợ ngày nào đó phải ra trước tòa Ngài; ông cũng chẳng nể sợ ai cả, tức là một kẻ không tuân giữ Luật Thiên Chúa (“yêu mến Thiên Chúa hết lòng, và yêu người thân cận như chính mình”). Quả thật, các Thánh vịnh có nói đến những hạng quan tòa như thế (x. Tv 58,2-3; 82,2). Ngôn ngữ Kinh Thánh gọi hạng người này là “quân gian ác”. Giới thiệu ông quan tòa bất chính trước như thế, hẳn là tác giả muốn tập trung chú ý vào tình trạng không thể làm gì được nữa: không mong có một cơ may nào cho bà góa kia đâu, bởi vì mọi sự đã qua rõ ràng. Một quan tòa không giữ lề luật, cũng chẳng kính sợ Thiên Chúa, chẳng coi ai ra gì, chắc chắn sẽ không đề lòng mình mềm ra vì một người đàn bà, phương chi một bà góa.
Còn bà góa, chúng ta không biết gì về tuổi tác, thu nhập, mức độ lệ thuộc, hoặc kẻ thù của bà, chỉ biết rằng bà thuộc về một trong ba hạng người thất thế về phương diện xã hội (quả phụ, cô nhi và di dân). Chính vì thế ông quan tòa chẳng có gì phải quan tâm đến bà. Nhưng hẳn là các thính giả cảm thấy xót xa khi nghe nói là bà phải gặp một quan tòa “chẳng coi ai ra gì”. Tuy nhiên, bà góa nghĩ rằng vụ việc của bà là đúng, và không có một chi tiết nào trong bài dụ ngôn gợi ý là vụ việc của bà không đúng, dù ta không biết là việc gì. Do đó, bà kiên trì kêu cứu. Bà kiên trì đến mức ông quan tòa cứng lòng và khinh người đã phải xét vụ việc của bà và cho bà được như ý. Để có thể làm chuyển động ông quan tòa đó, nại đến lương tâm thì không ích gì; phải chạm đến tính ích kỷ của ông: Ông phải minh xét vì không muốn bị quấy rầy liên tục như thế.
* Biến một chi tiết của dụ ngôn thành ẩn dụ (6-8a)
Thế rồi Đức Giêsu hỏi hai câu: “Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi?” (c. 7), mà không chờ câu trả lời, vì biết rằng ai cũng biết câu trả lời: “Chắc chắn Thiên Chúa sẽ minh xét cho những kẻ Ngài đã tuyển chọn, và Ngài sẽ không trì hoãn”. Nhưng Đức Giêsu lại nhấn mạnh hơn đến phản ứng của Thiên Chúa trước lời cầu nguyện: “Người sẽ mau chóng minh xét cho họ” (c. 8). Câu trả lời của Người vừa vững chắc, vừa tin tưởng, lại vừa thách đố: làm sao có thể khác được, khi Thiên Chúa là Thiên Chúa và khi những kẻ Người đã tuyển chọn đúng là như thế (“ngày đêm hằng kêu cứu với Người”)?
Để nêu bật sự mau mắn của Thiên Chúa trong việc đáp ứng những kẻ Ngài đã tuyển chọn, Đức Giêsu dùng một hình ảnh phản diện: ông quan tòa bất chính. Nếu lời cầu xin bền bỉ đã khiến cho kẻ có tính ích kỷ phải đáp ứng, thì càng khiến Thiên Chúa phải quan tâm, bởi vì Ngài không hề ích kỷ chút nào. Thật vậy, khi dạy các môn đệ cầu nguyện, Đức Giêsu đã bảo các ông thưa với Thiên Chúa như với “Cha” (Lc 11,2). Thêm vào bài học diễn tả qua hình ảnh ông quan tòa, hình ảnh bà góa lại củng cố những ai đang lung lay trong việc cầu nguyện. Như thế, bằng sự tương phản giữa hai dung mạo, Đức Giêsu đưa các thính giả đến chỗ đồng ý rằng quả thật không hề có một lý do gì mà nói rằng việc cầu nguyện kiên trì với vị Thiên Chúa vô cùng yêu thương và toàn năng lại không được chấp nhận.
Tuy nhiên, vì công thức “những kẻ Người đã tuyển chọn” có liên hệ đến thời bách hại, bài học của đoạn Tin Mừng này, ngoài mục tiêu là Ngày Tận Thế, cũng nhắm tới các hoàn cảnh khó khăn của những người đang bước theo Đức Giêsu và khuyến khích họ cứ vững tin vào Thiên Chúa.
* Biến cả dụ ngôn thành ẩn dụ (8b)
Đến đây Đức Giêsu lại hỏi: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người có tìm được lòng tin trên mặt đất chăng?”. Câu này đưa thính giả đi từ giọng điệu tích cực và khích lệ của cc. 6-8a sang một giọng điệu ưu tư, thách đố, bằng cách gợi ý là rất có thể Con Người không tim được “lòng tin” (tên pistin, ở dạng xác định, với quán từ xác định, chứ không ở dạng bất định) khi Người trở lại vào Ngày Phán Xét. Mô tả Đức Giêsu là “Con Người” có nghĩa là xác định Đức Giêsu sẽ phán xét loài người vào lúc tận thế. Còn “lòng tin” được nói đến ở đây hầu chắc có nội dung chuyên biệt có Đức Giêsu là trung tâm cùng với giáo huấn của Người. Như vậy, Người hỏi là khi trở lại, liệu Người trong tư cách “Con Người” có tìm được chăng lòng tin nơi Người và nơi giáo huấn của Người. Nhưng “lòng tin” đây còn có thể là điều tập trung trực tiếp hơn vào vấn đề được bài dụ ngôn nói đến: lòng tin nâng đỡ việc cầu nguyện liên tục, mà nếu không có lòng tin này, các môn đệ sẽ không cầu nguyện liên tục, sẽ nản chí. Vậy “lòng tin” đây còn có thêm nét này, là xác tín rằng chắc chắn Thiên Chúa sẽ nghe lời chúng ta cầu nguyện và sẽ mau mắn đến với chúng ta
+ Kết luận
Bản văn chúng ta đang đọc có hai điểm nhắm: Ở c. 1, điểm nhắm là người cầu nguyện phải kiên trì; ở cc. 6-8a, tác giả lại tâp trung vào thực tại Thiên Chúa chắc chắn nhận lời cầu nguyện. Vậy, một đàng, tác giả muốn giúp các độc giả kiên trì cầu nguyện, đừng nản chí, cho dù có được đáp trả thế nào; đàng khác, ngài bảo họ là đừng bao giờ nghi ngờ là Thiên Chúa không nghe lời các kẻ Ngài đã tuyển chọn và không mau mắn đáp ứng họ. Bài dụ ngôn về Ông quan tòa và bà góa giúp giải thích hai điểm giáo huấn ấy. Tuy nhiên, tác giả cảm thấy cũng phải đưa vào câu nói cuối cùng của Đức Giêsu: liệu người môn đệ có thật sự tiếp tục tin vững vàng rằng Thiên Chúa quá yêu thương dân Ngài, nên không thể nào không mau mắn đáp lại lời họ cầu nguyện chăng?
Sự tương phản giữa việc cầu nguyện không nản chí và việc Thiên Chúa mau mắn đáp lời cầu nguyện là do hai hoàn cảnh khác nhau: một bên là sự chờ đợi Phán Xét chung cuộc quá lâu; bên kia là tình trạng chịu bách hại. Đối với những người chịu bách hại, Thiên Chúa sẽ mau mắn can thiệp; còn đối với những người nản chí, hãy nhớ rằng Con Người sẽ đến kết thúc thế giới này.
Cuối cùng, có thể nói cốt lõi của bài học là nghĩ đến tình yêu của Thiên Chúa đối với người cầu nguyện và tin vào tình yêu ấy. Chính Đức Giêsu cũng đã phải đối diện với thách đố này: chính Người đã nghĩ rằng điều tốt hơn cho Người là tránh cái chết. Chỉ có sự tín nhiệm nơi tình yêu của Cha Người đối với Người mới khiến Người nói, mỗi khi Người nói rằng Người không muốn chết: “Xin cho ý Cha, chứ không phải ý con, được thực hiện” (Lc 22,42). Ở đây, cũng như trong mọi tình huống của cuộc đời, Người luôn để cho sự hiểu biết về tình yêu của Cha Người hướng dẫn mọi quyết định và hành động của Người. Việc Người cầu nguyện liên tục cho thấy lòng tin của Người đặt nơi tình yêu của Cha Người đối với Người; Người trở thành một điển hình để trả lời cho mối bận tâm của tác giả Lc, đó là cầu nguyện luôn và không được nản chí. Lời khuyến cáo duy nhất Người nói với các môn đệ khi ở trong vườn là: “Dậy mà cầu nguyện” (Lc 22,46). Quả thật, Thiên Chúa luôn tìm thấy Đức Giêsu kiên trì cầu nguyện (cả trên thập giá) cho đến tận lúc Ngài đến đưa Người về với Ngài.
Nói tóm, nếu một quan tòa bất chính và khinh người, mà chỉ vì muốn yên thân, đã xử công bình, thì một Người Cha yêu thương sẽ làm gì? Tình yêu của Ngài sẽ khiến Ngài cứ lần lữa, hay là làm cho Ngài mau mắn hành động? Bà góa đã thắng vụ kiện do liên tục quấy rối ông quan tòa bất chính; dưới ánh sáng của hoàn cảnh của bà, ta có thể nói gì về việc cầu nguyện liên tục với Thiên Chúa? Chúng ta còn có thể nghi ngờ là một việc cầu nguyện kiên trì không đưa lại hiệu quả gì cho chúng ta sao?
5.- Gợi ý suy niệm
1. Người ta thường đặt ra các câu hỏi như sau: Việc cầu nguyện có giá trị gì chăng? Thiên Chúa có quan tâm đến người cầu nguyện không? Phải chăng lời cầu nguyện chỉ như hơi thở hòa vào trong gió? Người ta hỏi như thế vì ghi nhận rằng dường như Thiên Chúa không phản ứng, và có biết bao người đã từng ngỏ lời với Ngài mà không nhận được sự trợ giúp của Ngài. Nếu lời cầu nguyện không có hiệu quả gì, thì nó có giá trị gì? Hợp lý nhất chẳng phải là ngưng cầu nguyện, để khỏi phí thì giờ sao? Tốt nhất không phải là tránh mọi ảo tưởng sao? Nếu đã không xoay trở được một mình hoặc không tìm được sự trợ giúp của người khác, chúng ta lại không phải suy ra rằng chúng ta cũng chẳng có thể trông mong gì được nơi Thiên Chúa sao? Đức Giêsu đã kể dụ ngôn Quan tòa bất chính để trả lời các vấn nạn này.
2. Nếu chúng ta cầu nguyện liên lỉ với Thiên Chúa, thì không phải là vì Thiên Chúa không quan tâm đến ta, nên ta phải quấy rầy Ngài. Thật ra khi đó, chúng ta sống được tương quan hiếu thảo với Ngài vì Ngài là Cha chúng ta, và ta cũng hiểu được chương trình Ngài đang theo để biết cộng tác vào. Thiên Chúa không phải là một quan tòa bất chính, hoàn toàn lãnh đạm đối với chúng ta, nhưng Ngài là Cha chúng ta, Ngài đồng hành với chúng ta với tất cả mối quan tâm từ phụ. Đối với Ngài, chúng ta không phải là những sinh vật vô nghĩa, không giá trị, mà là những kẻ Ngài tuyển chọn, những con cái được Ngài yêu thương. Tương quan này giữa Thiên Chúa và chúng ta là lý do khiến chúng ta không bao giờ được ngưng cầu nguyện; đã thế, chúng ta lại hoàn toàn có thể tin tưởng rằng lời cầu nguyện của chúng ta sẽ được chấp nhận. Do đó, không phải là vì Thiên Chúa, nhưng là vì chúng ta, chúng ta cần cầu nguyện kiên nhẫn, không ngừng.
3. Nếu chúng ta không cầu nguyện nữa, nếu chúng ta không tin tưởng Thiên Chúa nữa, chúng ta không nhìn nhận Ngài là Cha chúng ta và coi Ngài như là một Đấng bất lực hoặc như một nhà độc tài lãnh đạm. Do đó, cùng đi kèm với lời chúng ta cầu nguyện, phải có lòng tin của chúng ta đặt vào Thiên Chúa như là Cha chúng ta. Cho dù chúng ta có phải chờ đợi, cho dù chúng ta có không cảm nhận được sự gần kề của Thiên Chúa, cho dù lời chúng ta cầu nguyện có khi như rơi vào khoảng không, Thiên Chúa là và vẫn là Cha chúng ta. Chúng ta cần thưa gởi với Ngài, chúng ta phải duy trì cho sống động dây liên kết con cái với Chúa Cha. Nếu chúng ta ngưng cầu nguyện, mà coi việc cầu nguyện không có ý nghĩa, chúng ta cũng cắt đứt tương quan này. Ai không cầu nguyện nữa và chỉ cậy dựa vào sức riêng, người ấy độc lập đối với Thiên Chúa và loại trừ Ngài.
4. Bởi vì Ngài là Cha chúng ta, Thiên Chúa không thể không nhận lời chúng ta thỉnh cầu. Tuy nhiên, chúng ta không được quy định cho Ngài cách thức và thời điểm Ngài phải nhận lời chúng ta. Chỉ có một điều chúng ta biết chắc chắn, đó là Ngài sẽ minh xét cho chúng ta, sẽ cứu chúng ta. Ngài có thể thử thách chúng ta lâu dài, nhưng cũng có thể can thiệp rất nhanh, mà ta không ngờ. Dù thế nào, Ngài cũng không bao giờ bỏ chúng ta, không để chúng ta phải hư mất. Đối với Đức Giêsu, sự trợ giúp của Thiên Chúa là chuyện tuyệt đối chắc chắn, bởi vì quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa là những thực tại tuyệt đối chắc chắn. Chính vì thế, chắc chắn việc cầu nguyện vừa cần thiết vừa có ý nghĩa.
5. Nếu chúng ta không tin tưởng vào Thiên Chúa và loại trừ Ngài, chúng ta sẽ không được Ngài trợ giúp nữa, không phải vì Thiên Chúa không muốn giúp đỡ chúng ta, nhưng bởi vì chúng ta không mở lòng ra với Ngài để đón nhận Ngài. Do đó, câu hỏi của Đức Giêsu ở cuối bài Tin Mừng là một lời mời gọi chúng ta tin rằng nhờ đức tin và lời cầu nguyện, chúng ta luôn kết hợp với Thiên Chúa, và như thế, chúng ta sẵn sàng đón lấy sự trợ giúp và ơn cứu độ Ngài ban.
Lm FX Vũ Phan Long, ofm