Chúa Nhật XIV Thường Niên B
(Ed. 2: 2-5; 2Co. 12: 7-10; Mc. 6: 1-6)
“Cha Ta hằng làm việc, thì Ta cũng làm việc” (Ga.5: 17). Đó là câu Đức Giêsu nói với người Do Thái khi họ tra vấn tại sao Ngài chữa bệnh vào ngày sabát, tức ngày nghỉ theo luật của người Do Thái. Thiên Chúa luôn làm việc: Ngài lôi kéo con người đến với Ngài. Ngài có thể dùng biến cố này biến cố kia, hoặc người này người kia, hoặc ngay cả những giới hạn của mỗi người để giúp con người đến gần Thiên Chúa.
1. Vẫn có một tiên tri ở giữa họ
Tiên tri thường được nhiều người hiểu như người biết trước biến cố sẽ xảy ra. Một người như vậy, cho thấy người đó có quyền năng của Thiên Chúa. Thế nhưng theo đúng nghĩa, tiên tri là ngôn sứ, người đại diện Thiên Chúa nói với dân chúng, người nói với dân chúng theo lệnh của Thiên Chúa. Tiên tri, là một dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa hiện diện và quan tâm đến dân Ngài.
Trong lịch sử Do Thái, Thiên Chúa luôn yêu thương và săn sóc dân. Người Do Thái đã nhận ra các thẩm phán, các vua, là những người được Thiên Chúa xức dầu, là những người thay Thiên Chúa dẫn dắt và chăn dắt dân. Môsê là người được Thiên Chúa chọn để dẫn dân ra khỏi Aicập (Xh.3: 9-10), Samson là thẩm phán được Thiên Chúa dùng để giải phóng dân khỏi cảnh đàn áp của người Philitinh (Tp.13-16), Samuel là thẩm phán được sai tới để chăn dắt dân.
Tiên tri là người biết nhìn lịch sử, nhận ra sự can thiệp của Thiên Chúa trong cuộc sống mà nhiều người khác không nhận ra. Cũng có tiên tri không muốn thi hành chức năng “nói nhân danh Thiên Chúa cho dân” vì vị tiên tri biết rằng, mình có loan báo, thì dân chúng và những người lãnh đạo dân cũng chẳng nghe; như vậy, rao giảng chẳng có ích lợi gì mà chỉ chuốc lấy sự thù ghét và tai họa. Về điều này, tiên tri Yêrêmia là một điển hình. Lời Chúa trong sách tiên tri Êdêkiel hôm nay cho thấy, cho dù dân chúng có không nghe lời cảnh báo của Thiên Chúa qua tiên tri, thì ít nhất khi một tiên tri thi hành chức năng ngôn sứ của mình, cũng làm cho con người thời đại đó biết rằng, có một tiên tri đang hiện diện giữa họ: Thiên Chúa vẫn đang quan tâm và săn sóc lo lắng cho họ, cho dù họ có vâng nghe Thiên Chúa hay không.
2. Dầu vậy Đức Giêsu cũng chữa một vài bệnh nhân
Đức Giêsu được dân chúng cho là một tiên tri, và là một tiên tri lớn (Mt.16: 14). Với người Do Thái, Môsê là một tiên tri lớn. Người Do Thái vẫn mong ước vị tiên tri lớn cỡ tầm mức Môsê xuất hiện; vì như xưa Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu qua Môsê, thì khi vị tiên tri lớn tầm cỡ của Môsê xuất hiện, Thiên Chúa cũng sẽ làm những điều trọng đại cho dân tộc Do Thái như ngày xưa Ngài đã làm.
Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ, đã chữa lành nhiều bệnh nhân, đã phục sinh người chết, đã cho kẻ điếc được nghe người câm nói được kẻ què được đi. Ngài là một tiên tri, và là một tiên tri lớn. Chính Gioan tẩy giả cũng nghĩ rằng Đức Giêsu là vị tiên tri phải đến, vị tiên tri mà dân Do Thái hằng mong ước. Có thể đó là lý do tại sao Gioan lại sai môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: “Ngài có phải là Đấng phải đến không?” Đã có lúc dân Do Thái muốn tôn Đức Giêsu làm vua, vì họ nghĩ rằng Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu dân khỏi ách thống trị của người Roma (Ga.6: 15).
Không có tiên tri nào được đón nhận nơi quê hương mình. Người ta quá thành kiến về quá khứ hoặc thành phần giai cấp xã hội của vị ngôn sứ, nên không nhận ra sứ điệp hoặc sự can thiệp của Thiên Chúa qua họ. Khi Đức Giêsu trở về làng Nadarét, dân chúng đã không tiếp đón Ngài như một tiên tri, cho dù làng Nadarét là một làng nhỏ, và dân chúng nơi đó cũng không thông thái gì hơn những người ở thành thị khác ở đất nước Do Thái. Vì họ thiếu niềm tin, nên Đức Giêsu không thể làm những dấu lạ cả thể, Ngài phải ra đi. Tuy vây, “Ngài cũng đã làm một vài dấu lạ bằng cách đặt tay chữa lành một số người ốm đau bệnh tật”. Thiên Chúa vẫn luôn chứng tỏ sự hiện diện và quan tâm của Ngài đối với con người, cho dù con người có cố tình từ chối. Đức Giêsu là sự hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa cho con người, không chỉ đối với những người làng Nadarét, nhưng còn cả đối với tất cả người Do Thái thời đó, và còn cho tất cả con người của mọi thời đại sau nữa. Đức Giêsu là dấu chỉ và biểu tượng Thiên Chúa đang ở với con người.
3. Ơn Ta đủ cho con
Trước biến cố ngã ngựa trên đường đi Đamát, Phaolô là nỗi kinh hoàng đối với Kitô hữu. Tuy nhiên một khi được ơn trở lại, Phaolô lại là dấu chỉ của Thiên Chúa quyền năng, Đấng luôn hoạt động và làm con người trở lại với Ngài. Cả cuộc đời còn lại, Phaolô hăng say loan báo Tin Mừng Phục Sinh: Thiên Chúa đã làm những điều cả thể cho con người nơi Đức Giêsu Kitô. “Kể từ khi biết Đức Giêsu, tôi coi mọi sự như thua lỗ bất lợi cả, trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa tôi”. Với những người biết Phaolô, Phaolô là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa luôn hoạt động nơi con người.
Với cá nhân Phaolô, “cái dằm” đâm vào xác thịt của Phaolô lại là điều Thiên Chúa dùng để làm Phaolô ý thức sự hiện diện của Thiên Chúa và làm Phaolô gần gũi với Thiên Chúa. “Đã ba lần tôi xin Chúa cất cái dằm ra khỏi xác thịt tôi, nhưng Ngài nói: ơn Ta đủ cho con”. Thiên Chúa không cất “cái dằm” khỏi Phaolô, nhưng Thiên Chúa hứa ban ơn để Phaolô vượt lên được: “Ơn Ta đủ cho con”.
Nhiều người cũng có cái dằm nơi xác thịt mình. Có lẽ những người này cũng có kinh nghiệm xin Chúa cất cái dằm ra khỏi xác thịt mình. Nhiều người trong họ có kinh nghiệm “cái dằm” đó vẫn tồn tại cho dù họ đã thành khẩn kêu xin Chúa nhiều lần. Tuy nhiên, không biết những người này có ý thức được rằng: câu Thiên Chúa nói với Phaolô cũng là câu Thiên Chúa muốn nói với mỗi người không? “Ơn Ta đủ cho con”. Hãy tin tưởng nơi Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã khởi đầu những điều kỳ diệu nơi mỗi người, thì cũng chính Thiên Chúa là Đấng sẽ hoàn thành những gì Ngài đã khởi đầu. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài vẫn đang hoạt động nơi mỗi người qua Thánh Thần của Ngài. Chỉ cần mỗi người tin tưởng và đặt tất cả hy vọng nơi Ngài mà thôi.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
- Xin bạn kể một kinh nghiệm Thiên Chúa đã hoặc đang tác động trên bạn, nếu được.
- Với kinh nghiệm của bạn, Thiên Chúa là ai?
LM Phạm Thanh Liêm, SJ